Bộ Khoa học và Công nghệ đang tích cực đôn đốc và thúc đẩy 6 địa phương triển khai khu công nghiệp công nghệ số và khu công nghiệp công nghệ thông tin tập trung. Đến tháng 5/2025, trên cả nước đã có 8 khu công nghệ thông tin (CNTT) tập trung được thành lập, mở rộng và công nhận theo quy định của pháp luật. Mới đây, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 890/QĐ-TTg thành lập Khu công nghệ thông tin tập trung Bình Dương với quy mô diện tích 15,47 ha, nằm trong Khu liên hợp Công nghiệp – Dịch vụ – Đô thị Bình Dương.
Các doanh nghiệp thực hiện dự án trong lĩnh vực công nghệ thông tin đầu tư vào Khu công nghệ thông tin tập trung Bình Dương sẽ được hưởng các ưu đãi quy định tại Nghị định số 154/2013/NĐ-CP ngày 8/11/2013 của Chính phủ và các chính sách ưu đãi khác áp dụng đối với khu công nghệ thông tin tập trung theo quy định của pháp luật. Bộ Khoa học và Công nghệ cũng đang hướng dẫn và phối hợp thúc đẩy phát triển thêm các khu công nghệ số tập trung tại các địa phương như Yên Bình – Thái Nguyên, Hậu Giang, Bình Định, Hạ Long tỉnh Quảng Ninh, Long Thành tỉnh Đồng Nai và Bắc Ninh.
Tuy nhiên, đánh giá về Hệ sinh thái công nghiệp công nghệ số Việt Nam hiện vẫn còn hạn chế, thiếu tính đa dạng, bền vững và năng lực công nghệ. Các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu ứng dụng và phát triển công nghệ, trong khi khả năng làm chủ công nghệ còn hạn chế, đặc biệt là các công nghệ như Trí tuệ nhân tạo, điện toán đám mây, dữ liệu lớn, chuỗi khối, internet vạn vật, bán dẫn, 5G, 6G, thông tin vệ tinh.
Tổng doanh thu ngành cao nhưng chủ yếu đến từ doanh nghiệp FDI. Các doanh nghiệp Việt Nam hiện vẫn chưa thể tham gia sâu vào chuỗi giá trị của các doanh nghiệp FDI do chưa đáp ứng được các tiêu chí hoặc chưa đủ năng lực để nhận chuyển giao công nghệ mà các tập đoàn công nghệ quốc tế đặt ra.
Một trong những nguyên nhân chính là Việt Nam đang thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao, các tổng công trình sư. Mặc dù có nguồn nhân lực dồi dào, Việt Nam vẫn đang đối mặt với thách thức thiếu hụt các chuyên gia cao cấp trong lĩnh vực công nghiệp công nghệ số.
Để giải quyết vấn đề này, Bộ Khoa học và Công nghệ cho rằng cần hoàn thiện khung khổ pháp lý, đặc biệt là văn bản pháp luật hướng dẫn Luật Công nghiệp công nghệ số. Đồng thời, cần xây dựng và tổ chức triển khai các chiến lược, chương trình, đề án phát triển công nghiệp công nghệ số như Chiến lược quốc gia về phát triển công nghiệp bán dẫn.
Bộ cũng đề xuất phát triển hệ sinh thái công nghiệp công nghệ số Việt Nam toàn diện, bao trùm đầy đủ từ công nghiệp phụ trợ, sản xuất sản phẩm công nghệ số, nghiên cứu phát triển các nền tảng số, các giải pháp số tổng thể phục vụ chuyển đối số quốc gia và tham gia ngày càng sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu.