Hạ tầng số – Saovietonline.com https://saovietonline.com trang thông tin giải trí cập nhật nhanh nhất về giới nghệ sĩ, đời sống người nổi tiếng, sự kiện showbiz, âm nhạc, thời trang, phim ảnh và xu hướng văn hóa tại Việt Nam. Tin tức thời thượng – hình ảnh độc quyền – nội dung gần gũi. Sun, 07 Sep 2025 00:33:35 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/news/2025/08/saovietonline.svg Hạ tầng số – Saovietonline.com https://saovietonline.com 32 32 Hà Nội chuẩn hóa dữ liệu để xây dựng chính quyền số https://saovietonline.com/ha-noi-chuan-hoa-du-lieu-de-xay-dung-chinh-quyen-so/ Sun, 07 Sep 2025 00:33:34 +0000 https://saovietonline.com/ha-noi-chuan-hoa-du-lieu-de-xay-dung-chinh-quyen-so/

Thành phố Hà Nội đang đẩy mạnh việc chuyển đổi số trên nhiều lĩnh vực khác nhau, từ xây dựng chính quyền số, phát triển kinh tế số và xã hội số đến hiện đại hóa các phương thức phục vụ. Thông qua việc triển khai Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, Hà Nội đã đạt được nhiều kết quả nổi bật.

Ngay từ đầu năm 2025, UBND TP. Hà Nội đã chỉ đạo quyết liệt việc tổ chức thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW và Quyết định số 204-QĐ/TW của Ban Bí thư về chuyển đổi số trong các cơ quan Đảng. Thành phố tập trung vào các trụ cột chính như hoàn thiện thể chế, chính sách, phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, chính quyền số, kinh tế số và xã hội số.

Về xây dựng chính quyền số, Hà Nội đã triển khai hiệu quả 5 trụ cột chính, bao gồm hạ tầng số, nền tảng và hệ thống số, dữ liệu số, ứng dụng dịch vụ số và đảm bảo an toàn thông tin mạng. Dữ liệu trong các lĩnh vực then chốt như người có công, an sinh xã hội, hộ tịch, bảo trợ xã hội và trẻ em đã được chuẩn hóa, làm sạch và liên thông.

Trong lĩnh vực giáo dục, Hà Nội đã thí điểm học bạ số cho toàn bộ học sinh trung cấp cơ sở (THCS) và trung tâm giáo dục thường xuyên từ học kỳ II năm học 2024-2025. Lĩnh vực giao thông cũng chứng kiến bước đột phá khi Thành phố tiên phong ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trong điều hành, tối ưu hóa đèn tín hiệu và xử lý vi phạm giao thông.

Trong hệ thống các cơ quan Đảng, đoàn thể Thành phố, chuyển đổi số được Thành ủy Hà Nội chỉ đạo quyết liệt với nhiều sáng kiến đồng bộ. Một dấu ấn nổi bật là việc tích hợp thành công 4 thủ tục hành chính Đảng lên Cổng Dịch vụ công quốc gia.

Phó Bí thư Thường trực Thành ủy Nguyễn Văn Phong nhấn mạnh: “Dữ liệu số là tài sản, là nền tảng cho phát triển và quản trị thông minh. Người đứng đầu các đơn vị phải trở thành hạt nhân, người truyền cảm hứng và dẫn dắt công cuộc chuyển đổi số”.

Hà Nội cũng là địa phương đi đầu trong thực hiện Đề án 06 về phát triển ứng dụng dữ liệu dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia. Thành phố triển khai hiệu quả các nền tảng như: Ứng dụng Công dân Thủ đô số – iHanoi, sổ sức khỏe điện tử, cấp lý lịch tư pháp trên VNeID…

Tới đây, Hà Nội sẽ tiếp tục đẩy mạnh chuyển đổi số, xây dựng chính quyền số hiện đại, phục vụ toàn diện cho người dân và doanh nghiệp.

]]>
Quảng Ngãi ‘tiếp lửa’ hạ tầng số để bứt phá phát triển https://saovietonline.com/quang-ngai-tiep-lua-ha-tang-so-de-but-pha-phat-trien/ Sun, 24 Aug 2025 03:14:37 +0000 https://saovietonline.com/quang-ngai-tiep-lua-ha-tang-so-de-but-pha-phat-trien/

Trong bối cảnh hiện nay, việc đầu tư và hoàn thiện hạ tầng cho khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đang là ưu tiên hàng đầu giúp các địa phương bứt phá và phát triển nhanh, bền vững. Tại tỉnh Quảng Ngãi, việc đẩy mạnh hoàn thiện hạ tầng số đang được tập trung triển khai nhằm mang lại hiệu quả trong công tác quản lý, điều hành và phục vụ người dân, doanh nghiệp.

Tỉnh Quảng Ngãi đã đạt được nhiều kết quả tích cực trong việc phát triển hạ tầng số. Tính đến nay, 100% thôn, làng trên địa bàn tỉnh đã được phủ sóng di động 3G, 4G. Mạng 5G đã được triển khai tại các khu đô thị, công nghiệp với 58 trạm BTS. Tỷ lệ hộ gia đình sử dụng cáp quang đạt 73%, trong khi 83% dân số trưởng thành sở hữu điện thoại thông minh. Đây là những nền tảng quan trọng cho việc triển khai các ứng dụng và dịch vụ số tại địa phương.

Trung tâm dữ liệu tỉnh Quảng Ngãi được đầu tư với dung lượng lưu trữ lên đến 170 TB, vận hành 24 hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu, kết nối gần 60 ứng dụng. Hệ thống quản lý văn bản điện tử đã được triển khai tới 1.523 cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh. Tỷ lệ sử dụng văn bản điện tử ở cấp sở, ngành đạt hơn 99%. Hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính vận hành ổn định, cung cấp 732 dịch vụ công trực tuyến toàn trình, số hóa hồ sơ và kết quả đạt trên 99% ở cấp tỉnh. Những con số này cho thấy sự quyết tâm và nỗ lực của tỉnh Quảng Ngãi trong việc xây dựng chính quyền điện tử và đẩy mạnh chuyển đổi số.

Bên cạnh đó, công tác đảm bảo an toàn, an ninh mạng cũng được tỉnh Quảng Ngãi chú trọng. Các hệ thống SOC, phòng chống mã độc đã được triển khai đồng bộ, giúp kịp thời phát hiện và xử lý hơn 4.500 cảnh báo nguy cơ mất an toàn thông tin. Điều này cho thấy tỉnh Quảng Ngãi đã rất quan tâm đến vấn đề bảo mật và an toàn thông tin, một vấn đề hết sức quan trọng trong thời đại số hiện nay.

Những nỗ lực của tỉnh Quảng Ngãi trong việc hoàn thiện hạ tầng số và đẩy mạnh chuyển đổi số đã góp phần nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý, điều hành và phục vụ người dân, doanh nghiệp, tạo tiền đề cho sự phát triển nhanh và bền vững của địa phương. Việc triển khai các dự án công nghệ thông tin và đẩy mạnh chuyển đổi số không chỉ giúp Quảng Ngãi thu hẹp khoảng cách với các địa phương khác mà còn tạo ra nhiều cơ hội mới cho sự phát triển kinh tế – xã hội.

]]>
Quảng Ninh đẩy mạnh xây dựng nền hành chính số để phục vụ người dân và doanh nghiệp https://saovietonline.com/quang-ninh-day-manh-xay-dung-nen-hanh-chinh-so-de-phuc-vu-nguoi-dan-va-doanh-nghiep/ Sun, 03 Aug 2025 02:06:05 +0000 https://saovietonline.com/quang-ninh-day-manh-xay-dung-nen-hanh-chinh-so-de-phuc-vu-nguoi-dan-va-doanh-nghiep/

Quảng Ninh đang đẩy mạnh xây dựng một nền hành chính hiện đại, minh bạch, hiệu quả và gần gũi với người dân. Những nỗ lực này đã mang lại kết quả nổi bật trong các lĩnh vực như hạ tầng số, dữ liệu số, dịch vụ số và chính quyền số. Tỉnh đã thử nghiệm và vận hành hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính (TTHC) phù hợp với mô hình chính quyền địa phương hai cấp. Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, tổ chức và doanh nghiệp thực hiện các TTHC một cách nhanh chóng, minh bạch, tiết kiệm thời gian và chi phí.

Sở Nội vụ tập huấn kỹ năng sử dụng trí tuệ nhân tạo (AI) cho cán bộ, công chức, viên chức của đơn vị.
Sở Nội vụ tập huấn kỹ năng sử dụng trí tuệ nhân tạo (AI) cho cán bộ, công chức, viên chức của đơn vị.

Hệ thống thông tin giải quyết TTHC đã được triển khai tại Trung tâm Phục vụ hành chính công (PVHCC) tỉnh và các trung tâm PVHCC cấp xã. Hệ thống này giúp cán bộ thực hiện công việc giải quyết TTHC một cách dễ dàng và minh bạch. Mọi trạng thái của hồ sơ từ khi tiếp nhận đến khi trả kết quả đều được hiển thị trên hệ thống điện tử. Điều này không chỉ đảm bảo tính công khai mà còn cho phép giám sát dễ dàng.

Tỉnh Đoàn tổ chức các lớp "Bình dân học vụ số", phổ biến kỹ năng ứng AI cho người trung niên, người cao tuổi.
Tỉnh Đoàn tổ chức các lớp “Bình dân học vụ số”, phổ biến kỹ năng ứng AI cho người trung niên, người cao tuổi.

Tính đến đầu tháng 7/2025, toàn tỉnh Quảng Ninh có 2.023 TTHC thuộc thẩm quyền giải quyết của các cấp. Trong đó, 1.874 thủ tục đủ điều kiện cung cấp dưới hình thức dịch vụ công trực tuyến, với 80,31% là dịch vụ công toàn trình. Kết quả này thể hiện quyết tâm cao của tỉnh trong việc hiện đại hóa nền hành chính công và lấy người dân làm trung tâm.

Quảng Ninh cũng đã chủ động xây dựng hạ tầng số vững chắc. Điều này đảm bảo vận hành an toàn hệ thống thông tin trọng yếu phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành và chuyên môn nghiệp vụ của các cơ quan, đơn vị từ tỉnh đến cơ sở. Hệ thống hội nghị truyền hình trực tuyến được phát triển mạnh, hỗ trợ tổ chức họp, hội nghị nhanh chóng, tiết kiệm và hiệu quả.

Bên cạnh đó, tỉnh chú trọng xây dựng, kết nối, liên thông các cơ sở dữ liệu dùng chung giữa các ngành, lĩnh vực. Điều này nhằm chuẩn bị cho việc số hóa toàn diện đời sống kinh tế – xã hội trong thời gian tới. Tỉnh cũng đưa các nền tảng số, công nghệ số, kỹ năng số đến từng hộ gia đình, người dân. Đây là một xu hướng tích cực, lan tỏa văn hóa số trong toàn xã hội.

Tỉnh đã phát động phong trào ‘Bình dân học vụ số’ toàn tỉnh. Mục đích là nâng cao nhận thức, kỹ năng số cho cán bộ, công chức, viên chức và người dân. Đồng thời, tỉnh đẩy mạnh ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong chỉ đạo, điều hành. Đặc biệt, tỉnh đã phát huy hiệu quả các tổ công nghệ số cộng đồng tại các địa phương. Các tổ này giúp tuyên truyền, hướng dẫn người dân thực hiện dịch vụ công trực tuyến, sử dụng ứng dụng số và tiếp cận thông tin chính thống.

]]>
Nâng cao liên kết doanh nghiệp để tăng sức cạnh tranh https://saovietonline.com/nang-cao-lien-ket-doanh-nghiep-de-tang-suc-canh-tranh/ Tue, 29 Jul 2025 11:03:41 +0000 https://saovietonline.com/nang-cao-lien-ket-doanh-nghiep-de-tang-suc-canh-tranh/

Trong bối cảnh thế giới đầy biến động, liên kết doanh nghiệp đang trở thành một yếu tố quan trọng giúp các doanh nghiệp mở rộng và đa dạng hóa thị trường, kết nối và hiện thực hóa các mô hình kinh doanh mới. Thông qua việc liên kết, doanh nghiệp có thể chia sẻ và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực, giảm thiểu rủi ro và ứng phó hiệu quả với các diễn biến bất lợi, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Đánh giá của doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo về các nhân tố ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh quý I/2025 (theo Báo cáo kết quả khảo sát tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp quý I/2025 do Cục Thống kê (Bộ Tài chính) thực hiện)
Đánh giá của doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo về các nhân tố ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh quý I/2025 (theo Báo cáo kết quả khảo sát tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp quý I/2025 do Cục Thống kê (Bộ Tài chính) thực hiện)

Hiện nay, các hình thức liên kết doanh nghiệp rất đa dạng, bao gồm hợp tác doanh nghiệp cùng ngành, hình thành chuỗi sản xuất, chuỗi cung ứng, đầu tư, góp vốn, mua bán, sáp nhập và hình thành các nhóm công ty, ký kết hợp tác chiến lược. Đặc biệt, trong mối liên kết với doanh nghiệp nước ngoài, số lượng doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào chuỗi cung ứng của các tập đoàn đa quốc gia có xu hướng tăng. Sự liên kết giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp ngoài nhà nước cũng có điều kiện thuận lợi để phát triển thông qua chủ trương cổ phần hóa và đa dạng hóa sở hữu doanh nghiệp nhà nước.

Đề xuất, kiến nghị, mong muốn của doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo hỗ trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh (theo Báo cáo kết quả khảo sát tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp quý I/2025 do Cục Thống kê (Bộ Tài chính) thực hiện).
Đề xuất, kiến nghị, mong muốn của doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo hỗ trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh (theo Báo cáo kết quả khảo sát tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp quý I/2025 do Cục Thống kê (Bộ Tài chính) thực hiện).

Tuy nhiên, theo TS. Trần Thị Hồng Minh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược, doanh nghiệp Việt Nam vẫn thiếu sự liên kết chặt chẽ có tính hệ thống và bài bản. Việt Nam đã có một số doanh nghiệp lớn tham gia cạnh tranh quốc tế và tham gia một số khâu của chuỗi giá trị sản xuất khu vực và thế giới. Tuy nhiên, mạng lưới doanh nghiệp liên kết vẫn bị giới hạn trong phạm vi số ít các doanh nghiệp cùng hệ thống sở hữu. Đồng thời, còn thiếu các doanh nghiệp lớn, cả doanh nghiệp nhà nước và khu vực tư nhân, có khả năng kết nối, làm chủ chuỗi giá trị và dẫn dắt hệ sinh thái doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nước.

Hầu hết doanh nghiệp Việt Nam là doanh nghiệp nhỏ và vừa, hoạt động đơn lẻ và chưa chủ động tham gia vào các quan hệ đối tác, liên kết. Trong giai đoạn kinh tế khó khăn, chuỗi cung ứng đứt gãy, các doanh nghiệp trong nước không tạo được vòng tuần hoàn chặt chẽ để cùng liên kết, cung ứng, chia sẻ và tối đa hóa đầu vào, tiêu thụ sản phẩm đầu ra. Số lượng doanh nghiệp trong nước tham gia vào chuỗi cung ứng của các tập đoàn đa quốc gia và doanh nghiệp FDI còn hạn chế.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng này, bao gồm năng lực nội tại của phần lớn doanh nghiệp Việt Nam còn yếu, thể chế, chính sách thúc đẩy liên kết doanh nghiệp chưa đủ. Do đó, cần có các giải pháp đồng bộ để thúc đẩy liên kết doanh nghiệp, bao gồm việc tháo gỡ điểm nghẽn về thể chế, pháp luật, môi trường kinh doanh, xây dựng và phát triển hạ tầng số hiện đại, và chính sách ưu đãi vượt trội về thuế, tiếp cận vốn, bảo lãnh tín dụng.

Các chuyên gia cũng kiến nghị việc cần thiết phải điều chỉnh chính sách thu hút đầu tư nước ngoài theo hướng nâng cao điều kiện ràng buộc về tỷ lệ nội địa hóa và tỷ lệ sản phẩm, dịch vụ được cung cấp bởi các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam. Nhà nước cần đầu tư và có cơ chế ưu đãi đầu tư xây dựng các khu công nghiệp chuyên biệt cho doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Cần thúc đẩy hình thành và phát triển các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam quy mô lớn đóng vai trò liên kết, quy tụ, dẫn dắt doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nước ở một số ngành, lĩnh vực có thể đem lại vị thế quan trọng của quốc gia trong chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị toàn cầu.

]]>
Việt Nam hướng tới 30 tỷ USD từ thương mại điện tử vào năm 2030 https://saovietonline.com/viet-nam-huong-toi-30-ty-usd-tu-thuong-mai-dien-tu-vao-nam-2030/ Mon, 21 Jul 2025 09:50:24 +0000 https://saovietonline.com/viet-nam-huong-toi-30-ty-usd-tu-thuong-mai-dien-tu-vao-nam-2030/

Thương mại điện tử Việt Nam đang trải qua giai đoạn phát triển mạnh mẽ với tốc độ tăng trưởng ấn tượng trong giai đoạn 2020-2025. Dự kiến, quy mô thương mại điện tử sẽ đạt 30 tỷ USD vào năm 2025. Với nền tảng vững chắc này, mục tiêu của thương mại điện tử Việt Nam đến năm 2030 là đạt quy mô 30 tỷ USD, chiếm khoảng 15% tổng mức bán lẻ hàng hóa.

Việc đầu tư, nâng cấp các trung tâm dữ liệu lớn, nền tảng thanh toán điện tử và các sàn TMĐT xuyên biên giới cũng nằm trong lộ trình phát triển đến năm 2030. Đồ họa: TT
Việc đầu tư, nâng cấp các trung tâm dữ liệu lớn, nền tảng thanh toán điện tử và các sàn TMĐT xuyên biên giới cũng nằm trong lộ trình phát triển đến năm 2030. Đồ họa: TT

Trong giai đoạn 2021-2025, thương mại điện tử Việt Nam đã chứng kiến sự tăng trưởng mạnh mẽ nhờ vào việc đầu tư bài bản về hạ tầng và khung pháp lý. Bộ Công Thương đã chủ trì xây dựng nhiều văn bản quy phạm pháp luật quan trọng, đặc biệt là các nghị định liên quan đến thương mại điện tử, ngoại thương, thị trường và các mô hình kinh doanh số. Bên cạnh đó, việc xây dựng Luật Thương mại điện tử và nghiên cứu sửa đổi Luật Thương mại đã đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế; thúc đẩy tính minh bạch, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trên không gian số.

Song song với hoàn thiện thể chế, hạ tầng thương mại và logistics cũng được chú trọng đầu tư. Tính đến năm 2023, Việt Nam đã có hơn 30.000 kho bãi và 6 trung tâm logistics cấp quốc gia. Nhờ đó, chỉ số hiệu quả logistics của Việt Nam đã tăng 10 bậc, từ vị trí 53 lên vị trí 43. Hạ tầng số phục vụ thương mại điện tử cũng được đẩy mạnh. Bộ Công Thương hiện cung cấp 267 dịch vụ công trực tuyến, trong đó 100% thủ tục hành chính được thực hiện ở mức độ 3 và 4 trên Cổng Dịch vụ công quốc gia, giúp doanh nghiệp thương mại điện tử tiết kiệm thời gian và chi phí vận hành.

Một yếu tố then chốt góp phần mở rộng không gian thị trường cho hàng hóa và dịch vụ thương mại điện tử chính là việc Việt Nam tích cực ký kết và thực thi các hiệp định thương mại tự do (FTA). Trong giai đoạn 2020-2025, Việt Nam đã ký thêm 4 FTA, nâng tổng số lên 17 hiệp định với 65 đối tác toàn cầu.

Tuy nhiên, sự phát triển nhanh của thương mại điện tử cũng đặt ra nhiều thách thức cho công tác quản lý thị trường và bảo vệ người tiêu dùng. Trong giai đoạn 2021-2025, gần 290.000 vụ việc đã được kiểm tra, trong đó gần 200.000 vụ vi phạm đã bị cơ quan chức năng xử lý.

Để thực hiện các mục tiêu đến năm 2030, Bộ Công Thương tập trung hoàn thiện Luật Thương mại điện tử; tiếp tục ban hành các chính sách liên quan đến quản lý dữ liệu, bảo vệ người tiêu dùng số, logistics và công nghệ thanh toán. Bên cạnh đó, mở rộng hệ thống logistics phục vụ thương mại điện tử, nâng cao năng lực kho vận, giao hàng nhanh và hiệu quả. Việc đầu tư, nâng cấp các trung tâm dữ liệu lớn, nền tảng thanh toán điện tử và các sàn giao dịch xuyên biên giới cũng nằm trong lộ trình phát triển.

Với sự hỗ trợ mạnh mẽ từ chính sách, hạ tầng và nguồn lực, thương mại điện tử được kỳ vọng sẽ đóng vai trò trung tâm trong tiến trình chuyển đổi số quốc gia, góp phần đưa Việt Nam trở thành nền kinh tế số hàng đầu khu vực.

]]>