Doanh nghiệp nhà nước – Saovietonline.com https://saovietonline.com trang thông tin giải trí cập nhật nhanh nhất về giới nghệ sĩ, đời sống người nổi tiếng, sự kiện showbiz, âm nhạc, thời trang, phim ảnh và xu hướng văn hóa tại Việt Nam. Tin tức thời thượng – hình ảnh độc quyền – nội dung gần gũi. Mon, 08 Sep 2025 11:48:15 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/news/2025/08/saovietonline.svg Doanh nghiệp nhà nước – Saovietonline.com https://saovietonline.com 32 32 Petrovietnam: Điển hình tổ chức Đảng trong doanh nghiệp nhà nước https://saovietonline.com/petrovietnam-dien-hinh-to-chuc-dang-trong-doanh-nghiep-nha-nuoc/ Mon, 08 Sep 2025 11:48:08 +0000 https://saovietonline.com/petrovietnam-dien-hinh-to-chuc-dang-trong-doanh-nghiep-nha-nuoc/

Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (Petrovietnam) hiện là một điển hình về xây dựng Đảng vững mạnh và hoạt động hiệu quả trong khối doanh nghiệp nhà nước. Hiện toàn thể cán bộ, đảng viên của tập đoàn đang tích cực thi đua chào mừng Đại hội Đảng bộ Tập đoàn Công nghiệp – Năng lượng Quốc gia Việt Nam lần thứ IV.

Lễ gắn biển công trình, sản phẩm chào mừng Đại hội đại biểu Đảng bộ Petrovietnam lần thứ IV, nhiệm kỳ 2025-2030.
Lễ gắn biển công trình, sản phẩm chào mừng Đại hội đại biểu Đảng bộ Petrovietnam lần thứ IV, nhiệm kỳ 2025-2030.

Việc triển khai Quy định số 60-QĐ/TW của Ban Bí thư về tổ chức Đảng trong doanh nghiệp nhà nước đã giúp Petrovietnam xây dựng hệ thống chính trị đồng bộ, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, thống nhất. Từ đó, tập đoàn đã nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, đóng góp quan trọng cho sự nghiệp phát triển đất nước.

Ngay sau khi Quy định số 60-QĐ/TW được ban hành, Đảng ủy Petrovietnam đã chủ động triển khai nghiêm túc, đồng bộ trong toàn hệ thống. Đảng bộ Petrovietnam được tổ chức theo mô hình 4 cấp, với Đảng bộ toàn Tập đoàn là tổ chức cấp trên cơ sở, định hướng và bao quát hoạt động của hơn 940 tổ chức đảng cơ sở, với hơn 13.800 đảng viên đang sinh hoạt tại các đơn vị thành viên.

Mô hình tổ chức đảng phù hợp với cơ cấu quản trị ‘Tập đoàn – công ty con – liên doanh/liên kết’, đảm bảo sự lãnh đạo xuyên suốt từ trên xuống dưới, thuận lợi cho việc quản lý, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị và phát triển doanh nghiệp. Đặc biệt, Petrovietnam đang định hướng phát triển trên ba trụ cột chiến lược: năng lượng, công nghiệp và dịch vụ – trong đó, năng lượng giữ vai trò nòng cốt, đảm bảo sự tương hỗ toàn diện.

Một trong những điểm nổi bật của mô hình Đảng bộ toàn Tập đoàn là việc Bí thư Đảng ủy đồng thời là Chủ tịch hoặc Tổng Giám đốc, giúp nâng cao vai trò lãnh đạo, tăng cường trách nhiệm và đảm bảo sự đồng bộ giữa lãnh đạo chính trị và điều hành doanh nghiệp.

Đảng ủy Petrovietnam chú trọng công tác cán bộ, quy hoạch, luân chuyển, đào tạo nhân sự gắn liền với chiến lược phát triển ngành. Đặc biệt, đội ngũ cán bộ các cấp được lựa chọn kỹ lưỡng, bảo đảm đủ phẩm chất, năng lực, tinh thần đổi mới sáng tạo. Công tác phát triển cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số cũng được triển khai có hiệu quả, góp phần làm phong phú và bền vững nguồn lực lãnh đạo trong dài hạn.

Từ năm 2010 đến nay, Petrovietnam đã thành lập mới 25 tổ chức cơ sở đảng, chuyển đổi 57 mô hình chi/đảng bộ, và tiếp nhận hơn 30 tổ chức từ các đơn vị có vốn góp. Tỷ lệ tổ chức đảng đạt danh hiệu ‘trong sạch, vững mạnh, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ’ luôn duy trì ở mức 36–45% trong ba nhiệm kỳ gần đây.

Bên cạnh đó, công tác giáo dục chính trị, tư tưởng được chú trọng, chất lượng sinh hoạt chi bộ không ngừng được nâng cao. Cấp ủy các cấp bám sát diễn biến tư tưởng đảng viên, qua đó kịp thời định hướng dư luận, nâng cao nhận thức và trách nhiệm của từng cán bộ, đảng viên.

Petrovietnam còn đẩy mạnh phối hợp với các địa phương có đơn vị trực thuộc, ký kết quy chế hợp tác với 7 tỉnh, thành ủy, góp phần nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng – an ninh trên địa bàn.

Thực tiễn gần 17 năm hoạt động cho thấy, mô hình Đảng bộ toàn Tập đoàn theo Quy định 60-QĐ/TW đã giúp nâng cao rõ rệt năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng trong doanh nghiệp. Không chỉ bảo đảm tính thống nhất trong định hướng phát triển, Tổ chức Đảng còn trở thành trung tâm đoàn kết, sáng tạo, hỗ trợ các đơn vị thành viên phối hợp chặt chẽ, tận dụng hiệu quả nguồn lực trong tái cấu trúc, xử lý khủng hoảng, đầu tư chiến lược, chuyển dịch năng lượng và xây dựng văn hóa doanh nghiệp.

Petrovietnam không chỉ là đơn vị chủ lực trong bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, mà còn góp phần quan trọng vào ổn định kinh tế vĩ mô, giữ vững chủ quyền biển đảo, đảm bảo an sinh xã hội. Thành công của Petrovietnam trong việc xây dựng tổ chức đảng đồng bộ, nhất quán từ trung ương đến cơ sở là một minh chứng sinh động cho hiệu quả lãnh đạo của Đảng trong các doanh nghiệp nhà nước.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển dịch năng lượng ngày càng mạnh mẽ, việc duy trì tổ chức Đảng bộ toàn Tập đoàn với vai trò lãnh đạo toàn diện càng trở nên quan trọng, giúp Petrovietnam tiếp tục vững bước là lực lượng tiên phong trong ngành công nghiệp năng lượng; đồng thời là hình mẫu về tổ chức đảng trong các doanh nghiệp nhà nước Việt Nam hiện nay.

]]>
Doanh nghiệp Nhà nước tăng trưởng tích cực, hoàn thành tốt kế hoạch năm 2025 https://saovietonline.com/doanh-nghiep-nha-nuoc-tang-truong-tich-cuc-hoan-thanh-tot-ke-hoach-nam-2025/ Thu, 14 Aug 2025 05:43:46 +0000 https://saovietonline.com/doanh-nghiep-nha-nuoc-tang-truong-tich-cuc-hoan-thanh-tot-ke-hoach-nam-2025/

Trong bối cảnh kinh tế đang dần phục hồi sau đại dịch và chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố toàn cầu, các doanh nghiệp do Bộ Tài chính Việt Nam làm đại diện chủ sở hữu đã cho thấy khả năng phục hồi và thích ứng ấn tượng trong nửa đầu năm 2025. Dựa trên báo cáo sơ bộ, nhiều chỉ tiêu sản lượng chủ yếu của các doanh nghiệp ước đạt khoảng 50-60% kế hoạch năm, phản ánh sự nỗ lực và bền bỉ của các đơn vị trong việc khôi phục hoạt động sản xuất kinh doanh.

Đặc biệt, một số lĩnh vực đã ghi nhận mức tăng trưởng đáng kể, với mức tăng từ 5-15% so với cùng kỳ năm trước. Điều này cho thấy không chỉ sự phục hồi mà còn là sự phát triển ở một số ngành, góp phần thúc đẩy tổng thể nền kinh tế.

Về vận tải đường hàng không, trong 6 tháng đầu năm 2025 đạt 12,6% triệu lượt khách (tăng 13% so với cùng kỳ) và 165.000 tấn hàng hóa (tăng 15% so với cùng kỳ); các cảng hàng không, sân bay đạt khoảng 60 triệu lượt khách, 817.000 tấn hàng hóa (tăng 12% so với cùng kỳ).
Về vận tải đường hàng không, trong 6 tháng đầu năm 2025 đạt 12,6% triệu lượt khách (tăng 13% so với cùng kỳ) và 165.000 tấn hàng hóa (tăng 15% so với cùng kỳ); các cảng hàng không, sân bay đạt khoảng 60 triệu lượt khách, 817.000 tấn hàng hóa (tăng 12% so với cùng kỳ).

Về các chỉ số tài chính, tổng doanh thu hợp nhất 6 tháng đầu năm 2025 của các doanh nghiệp ước đạt khoảng 1,07 triệu tỷ đồng. Con số này tương đương 100,3% so với cùng kỳ năm trước và hoàn thành 50,3% kế hoạch năm. Về lợi nhuận, lợi nhuận trước thuế hợp nhất ước đạt 82.100 tỷ đồng, đạt 60,9% kế hoạch và tương đương 93,1% so với cùng kỳ năm trước. Những con số này phản ánh hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp và khả năng quản lý, điều hành trong bối cảnh nhiều thách thức.

Về nghĩa vụ với ngân sách Nhà nước, số nộp ngân sách ước đạt 102.700 tỷ đồng. Mặc dù chỉ bằng 54,6% kế hoạch năm, con số này vẫn tương đương 96,9% so với cùng kỳ năm trước, cho thấy sự đóng góp ổn định của các doanh nghiệp vào ngân sách, góp phần cùng Chính phủ thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội.

Tổng quan, kết quả hoạt động của các doanh nghiệp do Bộ Tài chính làm đại diện chủ sở hữu trong nửa đầu năm 2025 đã phản ánh sự phục hồi tích cực và khả năng thích ứng của các doanh nghiệp trong điều kiện kinh tế hiện nay. Với việc tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động sản xuất kinh doanh và quản lý hiệu quả, các doanh nghiệp được kỳ vọng sẽ hoàn thành và thậm chí vượt kế hoạch đề ra cho năm 2025.

Thông tin chi tiết về báo cáo tài chính có thể được tìm hiểu tại trang web của Bộ Tài chính Việt Nam.

]]>
Tập đoàn nhà nước đua tăng trưởng, thách thức mục tiêu cao https://saovietonline.com/tap-doan-nha-nuoc-dua-tang-truong-thach-thuc-muc-tieu-cao/ Sat, 02 Aug 2025 03:29:30 +0000 https://saovietonline.com/tap-doan-nha-nuoc-dua-tang-truong-thach-thuc-muc-tieu-cao/

Nhiều tập đoàn và tổng công ty nhà nước đã cam kết đạt được mức tăng trưởng ấn tượng trong năm nay, với một số đơn vị đặt mục tiêu tăng trưởng hai con số. Tại Hội nghị Đánh giá công tác 6 tháng đầu năm và phương hướng, nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2025 của các doanh nghiệp do Bộ Tài chính làm cơ quan đại diện chủ sở hữu, lãnh đạo các tập đoàn và tổng công ty đã thể hiện quyết tâm cao.

Tập đoàn Công nghiệp – Năng lượng quốc gia Việt Nam (PVN) đã xây dựng kế hoạch kinh doanh hoàn chỉnh để đảm bảo đạt mục tiêu tăng trưởng 8% trong năm 2025. Tuy nhiên, với mục tiêu tăng trưởng của nền kinh tế năm nay là 8,3 – 8,5%, PVN đã điều chỉnh mục tiêu tăng trưởng lên 11%. Ông Lê Mạnh Hùng, Chủ tịch Hội đồng Thành viên PVN, cho biết doanh nghiệp sẽ nỗ lực tìm kiếm các cơ hội và giải pháp để đạt được chỉ tiêu mới.

Tương tự, Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam (TKV) cũng điều chỉnh mục tiêu tăng trưởng từ 8% lên 10% trong năm 2025. Tổng công ty Đường sắt Việt Nam (VNR) đề xuất nâng tốc độ tăng trưởng doanh thu lên 9%. Các doanh nghiệp khác như Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT), Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam (VRG) cũng được đề nghị mức tăng trưởng doanh thu hoặc sản lượng trên 10%.

Để đạt được mục tiêu tăng trưởng, các doanh nghiệp sẽ phải rà soát và cân đối lại các kịch bản tăng trưởng đã hoàn thiện trước đó. Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng yêu cầu các doanh nghiệp phải chủ động trong đánh giá thị trường, có giải pháp mở rộng thị trường, đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ, và chủ động ứng phó với các rào cản thương mại mới.

Bộ trưởng cũng cam kết sẽ không chậm trễ trong tháo gỡ các vướng mắc, khó khăn của doanh nghiệp, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến hoạt động kinh doanh và giải ngân vốn đầu tư. Ông yêu cầu các cục, vụ, viện tập trung rà soát các kiến nghị của doanh nghiệp và có phương án xử lý, tham mưu nhanh nhất.

Kết quả kinh doanh 6 tháng đầu năm của các doanh nghiệp nhà nước cho thấy nhiều điều kiện để thúc đẩy tăng trưởng. Các chỉ tiêu sản lượng chủ yếu ước đạt 50 – 60% kế hoạch năm, trong đó một số lĩnh vực ghi nhận mức tăng trưởng 5 – 15% so với cùng kỳ. Với sự quyết tâm của các doanh nghiệp và sự hỗ trợ của Bộ Tài chính, mục tiêu tăng trưởng 8,3 – 8,5% của nền kinh tế trong năm nay có thể được đạt được.

Các doanh nghiệp nhà nước đang tích cực triển khai các giải pháp để đạt được mục tiêu tăng trưởng. Với sự chỉ đạo quyết liệt của Bộ Tài chính và sự nỗ lực của các doanh nghiệp, hy vọng rằng mục tiêu tăng trưởng của nền kinh tế sẽ được thực hiện thành công.

Để biết thêm thông tin về tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước, vui lòng truy cập vào trang web của Bộ Tài chính để cập nhật thông tin mới nhất.

]]>
Đề xuất thuế căn nhà thứ hai để kìm giá bất động sản https://saovietonline.com/de-xuat-thue-can-nha-thu-hai-de-kim-gia-bat-dong-san/ Mon, 28 Jul 2025 13:56:51 +0000 https://saovietonline.com/de-xuat-thue-can-nha-thu-hai-de-kim-gia-bat-dong-san/

Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (NEU) vừa đưa ra kiến nghị gửi tới Chính phủ và các bộ ngành liên quan về các vấn đề kinh tế đang được quan tâm hiện nay. Trong đó, đổi mới mô hình tăng trưởng để tạo tiền đề cho tăng trưởng kinh tế là một trong năm vấn đề được NEU đề cập đến.

Cụ thể, các chuyên gia của NEU cho rằng, bên cạnh các giải pháp như tinh giảm hệ thống doanh nghiệp nhà nước và nâng cao chất lượng thể chế, tìm kiếm các nguồn thu bền vững mới để thay thế một phần cho các nguồn thu truyền thống cũng là yếu tố quan trọng. Theo đó, Việt Nam nên cân nhắc đánh thuế căn nhà thứ hai trở đi nhằm hạn chế tình trạng đầu cơ và găm giữ bất động sản. Đây là nguyên nhân khiến tình trạng ‘đô thị ma’ xuất hiện, kéo theo sự khan hiếm nguồn cung trên thị trường thứ cấp.

Nhóm nghiên cứu NEU đánh giá, khi chi phí sở hữu căn nhà thứ hai tăng lên do thuế, những chủ thể găm giữ sẽ có xu hướng sử dụng hiệu quả hơn bằng cách buộc phải bán bớt hoặc cho thuê, hoặc đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Từ đó, giúp tăng nguồn cung và góp phần hạ nhiệt giá nhà trên thị trường, từ đó hỗ trợ thị trường bất động sản trở nên lành mạnh cũng như tránh lãng phí tài nguyên.

Thứ hai, sửa đổi/cắt giảm gánh nặng thuế thu nhập cá nhân nên được thực hiện trong bối cảnh căng thẳng thương mại gia tăng và đối mặt với nguy cơ các quốc gia như Mỹ áp đặt thuế quan cao. Theo các nhà nghiên cứu, mức giảm trừ gia cảnh chậm được điều chỉnh, không theo kịp lạm phát và chi phí sinh hoạt thực tế, cũng như bậc thuế quá sát nhau khiến nhiều người dân, đặc biệt là tầng lớp trung lưu và thu nhập thấp phải chịu thuế ở mức cao ngay cả khi thu nhập chỉ vừa đủ để trang trải cuộc sống.

Chính vì vậy, nếu điều chỉnh giảm sắc thuế này sẽ giúp tăng thu nhập khả dụng cho người dân, từ đó khuyến khích người dân tăng chi tiêu cho hàng hóa, dịch vụ trong nước và bù đắp một phần sụt giảm từ hoạt động xuất khẩu.

Thứ ba, Việt Nam nên áp dụng chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp dựa trên tỷ lệ nội địa hóa của các doanh nghiệp xuất khẩu. Nhóm nghiên cứu NEU đánh giá đây là một công cụ hiệu quả để phát triển công nghiệp phụ trợ và tăng cường khả năng chống chịu của nền kinh tế trước các biến động thương mại toàn cầu.

Thông qua việc chủ động nguồn cung trong nước, các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam sẽ giảm thiểu được rủi ro bị ảnh hưởng từ các chính sách thương mại quốc tế bất lợi, đảm bảo tính ổn định và bền vững cho hoạt động xuất khẩu.

Năm chủ đề được các chuyên gia NEU kiến nghị lên Chính phủ bao gồm: (i) Đổi mới mô hình tăng trưởng kết hợp cải cách thể chế nhằm tạo tiền đề cho tăng trưởng kinh tế; (ii) Hoàn thiện tư duy và cách thức nhìn nhận khu vực kinh tế tư nhân; (iii) Cải thiện chất lượng đầu tư công hướng tới mục tiêu tăng trưởng trung hạn; (iv) Tăng cường phát triển nền kinh tế số và kinh tế xanh và (v) Phát triển các vùng kinh tế động lực nhằm tạo đà cho tăng trưởng kinh tế.

Cũng tại bản kiến nghị, nhóm nghiên cứu NEU nhận định, từ năm 2011 đến nay, so với các khu vực kinh tế khác, khu vực kinh tế tư nhân tại Việt Nam còn tồn tại 3 hạn chế bao gồm: (i) có hiệu quả kinh doanh thấp nhất; (ii) có trình độ khoa học công nghệ thấp nhất và (iii) thu nhập của người lao động thấp nhất.

Đối mặt với thực trạng khu vực kinh tế tư nhân đang có biểu hiện ‘chững lại’ về mặt tốc độ, nhóm nghiên cứu đề xuất Chính phủ cần hoàn thiện chính sách thuế bình đẳng cho các doanh nghiệp tư nhân so với các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp FDI.

Thứ nhất, cần thực hiện nhanh chóng áp dụng chính sách thuế tối thiểu toàn cầu. Theo các nhà khoa học NEU, mức thuế thu nhập doanh nghiệp phổ biến ở Việt Nam hiện nay là 20%. Tuy nhiên, thông qua các chính sách ưu đãi, khu vực FDI được hưởng mức thuế suất trung bình vào khoảng 12%, đồng nghĩa chênh lệch khoảng 2,7% so với thuế tối thiểu toàn cầu.

Thứ hai, phải giải quyết hợp lý vấn đề liên quan đến chuyển giá của các doanh nghiệp FDI. Theo đó, cần ngăn chặn hiện tượng các doanh nghiệp FDI hoạt động kinh doanh có lãi tại Việt Nam nhưng tìm cách chuyển thành chi phí nguyên nhiên vật liệu, thiết bị, tài sản trí tuệ, dịch vụ nhập khẩu với giá khá cao. Trong đó, người xuất khẩu chính là công ty mẹ ở nước ngoài để có được khoản thu lời lớn.

Cuối cùng, xóa bỏ tình trạng trốn thuế của các doanh nghiệp FDI thông qua chính sách chuyển giá bất hợp lý. Nhóm nghiên cứu NEU cho rằng cơ quan chức năng cần nghiên cứu áp dụng các biện pháp phòng chống trốn và tránh thuế đang áp dụng tại các nước tiên tiến để giải quyết vấn đề trên.

Từ năm 2011 đến nay, lợi nhuận trước thuế bình quân của một doanh nghiệp tư nhân chỉ bằng 0,52% của doanh nghiệp nhà nước và gần 3,1% của doanh nghiệp FDI, đồng thời năng suất lao động chỉ bằng 34% năng suất lao động của khu vực doanh nghiệp nhà nước và khoảng 69% năng suất lao động của khu vực FDI.

Bên cạnh đó, theo số liệu từ Cục Thống kê (2023), nếu xét các doanh nghiệp chế biến chế tạo khu vực tư nhân hiện nay, tỷ lệ sử dụng công nghệ lần lượt là 12%, 23% và 56% (cao, trung bình và thấp). Ngoài ra, thu nhập bình quân của người lao động doanh nghiệp tư nhân chỉ bằng 57,1% doanh nghiệp nhà nước, 78,4% doanh nghiệp FDI.

]]>
Quy định tiền thưởng cho Ban điều hành doanh nghiệp nhà nước: Lương ai là cơ sở tính thưởng? https://saovietonline.com/quy-dinh-tien-thuong-cho-ban-dieu-hanh-doanh-nghiep-nha-nuoc-luong-ai-la-co-so-tinh-thuong/ Sun, 27 Jul 2025 00:46:37 +0000 https://saovietonline.com/quy-dinh-tien-thuong-cho-ban-dieu-hanh-doanh-nghiep-nha-nuoc-luong-ai-la-co-so-tinh-thuong/

Gần đây, ông Đỗ Thế Hiển đã lên tiếng phản ánh về việc xác định tiền thưởng cho Ban điều hành các doanh nghiệp nhà nước. Theo Nghị định số 44/2025/NĐ-CP và Thông tư số 03/2025/TT-BNV, tiền lương của Ban điều hành làm việc theo chế độ bổ nhiệm sẽ được sử dụng làm cơ sở để xác định tiền thưởng. Cụ thể, mức tiền lương này được lấy từ quỹ tiền lương thực hiện của người lao động và Ban điều hành theo quy chế trả lương do doanh nghiệp ban hành.

Ông Hiển đặt ra câu hỏi về việc liệu có nên sử dụng tiền lương của riêng Ban điều hành hay tiền lương của toàn bộ người lao động, bao gồm cả Ban điều hành, để xác định mức thưởng. Ông cũng bày tỏ lo ngại rằng nếu sử dụng mức tiền lương của người lao động làm cơ sở trích thưởng cho Ban điều hành, thì mức thưởng có thể thấp hơn nhiều so với trước khi Nghị định số 44/2025/NĐ-CP được ban hành.

Về vấn đề này, Bộ Nội vụ đã có lời giải đáp. Theo khoản 2 Điều 26 Nghị định số 44/2025/NĐ-CP, quỹ thưởng của thành viên Ban điều hành làm việc theo chế độ bổ nhiệm được xác định, quản lý và sử dụng theo quy định của Chính phủ về đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp và quản lý, sử dụng vốn, tài sản tại doanh nghiệp.

Bộ Nội vụ khẳng định rằng tiền lương của Ban điều hành làm việc theo chế độ bổ nhiệm làm cơ sở xác định tiền thưởng là mức tiền lương từ quỹ tiền lương thực hiện của người lao động và Ban điều hành theo quy chế trả lương do doanh nghiệp ban hành. Điều này có nghĩa là mức tiền lương của cả người lao động và Ban điều hành sẽ được sử dụng để xác định tiền thưởng cho Ban điều hành.

Như vậy, việc xác định tiền thưởng cho Ban điều hành doanh nghiệp nhà nước sẽ được thực hiện một cách minh bạch và rõ ràng hơn, dựa trên mức tiền lương thực tế của cả người lao động và Ban điều hành. Điều này giúp đảm bảo công bằng và hợp lý trong việc đánh giá và trả lương cho Ban điều hành, đồng thời cũng giúp tăng cường sự minh bạch và trách nhiệm trong quản lý doanh nghiệp nhà nước.

Thông tin trên https://www.lawnet.virtuolaw.vn/the-nao-la-tien-thuong-cua-ban-dieu-hanh-doanh-nghiep-nha-nuoc-164924.html cũng cho biết thêm về vấn đề này.

]]>
Từ tháng 8, Luật Quản lý vốn nhà nước có hiệu lực, doanh nghiệp nhà nước được tự chủ hơn https://saovietonline.com/tu-thang-8-luat-quan-ly-von-nha-nuoc-co-hieu-luc-doanh-nghiep-nha-nuoc-duoc-tu-chu-hon/ Sun, 27 Jul 2025 00:13:47 +0000 https://saovietonline.com/tu-thang-8-luat-quan-ly-von-nha-nuoc-co-hieu-luc-doanh-nghiep-nha-nuoc-duoc-tu-chu-hon/

Luat Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp (số 68/2025/QH15) dự kiến có hiệu lực từ ngày 01/08/2025, đánh dấu một bước chuyển quan trọng trong quản lý doanh nghiệp nhà nước (DNNN) bằng cách trao quyền tự chủ nhiều hơn cho doanh nghiệp. Theo đó, DNNN sẽ được tự phê duyệt và triển khai chiến lược phát triển và kế hoạch kinh doanh hàng năm mà không cần phụ thuộc vào cơ quan đại diện chủ sở hữu. Đây là một bước tiến quan trọng từ mô hình quản lý hành chính sang cơ chế thị trường nhằm khơi thông nguồn lực và tăng cường năng lực tài chính cho DNNN.

Một điểm nổi bật khác của Luật là tạo điều kiện cho doanh nghiệp sử dụng hiệu quả nguồn lực tài chính và con người. Cụ thể, DNNN sẽ được toàn quyền quyết định các chính sách tiền lương, thưởng, thù lao cho người lao động và lãnh đạo trong phạm vi quỹ lương được phê duyệt. Điều này giúp tăng tính cạnh tranh và giữ chân nhân sự chất lượng cao. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng được phép trích tối đa 50% lợi nhuận sau thuế vào Quỹ đầu tư phát triển và tối đa 3 tháng lương cho Quỹ khen thưởng, phúc lợi.

Về mặt tài chính, Luật mới mang lại cơ chế huy động vốn linh hoạt hơn cho DNNN. Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty sẽ được quyền quyết định các phương án vay vốn mà không cần chờ phê duyệt, trừ khi khoản vay vượt quá ba lần vốn chủ sở hữu. Điều này giúp doanh nghiệp nắm bắt cơ hội thị trường kịp thời và chủ động triển khai các dự án đầu tư.

Luat cũng mở rộng phạm vi đầu tư và xóa bỏ những rào cản trước đây trong lĩnh vực bất động sản. Các công ty mẹ nắm vốn chi phối của Nhà nước được phép cho công ty con vay nội bộ, tăng thêm tính linh hoạt và hiệu quả sử dụng nguồn vốn trong nội bộ tập đoàn, tổng công ty.

Để triển khai Luật, Bộ Tài chính đang hoàn thiện dự thảo 3 Nghị định quy định chi tiết. Các nghị định này sẽ quy định cụ thể về quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp, giám sát, kiểm tra, đánh giá, xếp loại doanh nghiệp, và cơ cấu lại vốn nhà nước tại doanh nghiệp.

Phó Thủ tướng Chính phủ Hồ Đức Phớc đã nhấn mạnh rằng Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp là một bước đi quan trọng trong việc đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước. Ông yêu cầu Bộ Tài chính tiếp tục hoàn thiện dự thảo các Nghị định với tinh thần tháo gỡ vướng mắc, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, và nâng cao tính tự chủ của doanh nghiệp.

Việc triển khai Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp được kỳ vọng sẽ góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nhà nước, tăng cường năng lực tài chính và cạnh tranh của DNNN trên thị trường. Đồng thời, việc trao quyền tự chủ nhiều hơn cho doanh nghiệp cũng sẽ giúp tăng cường trách nhiệm và quyền lợi của các doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của khu vực kinh tế nhà nước.

Đại diện Bộ Tài chính cho biết, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp là một quá trình liên tục và đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng. Bộ Tài chính sẽ tiếp tục đẩy mạnh công tác này để đảm bảo việc triển khai Luật được hiệu quả và đúng tiến độ.

]]>
Nâng tầm doanh nghiệp nhà nước: Cần đổi mới quản trị và đẩy mạnh chuyển đổi số https://saovietonline.com/nang-tam-doanh-nghiep-nha-nuoc-can-doi-moi-quan-tri-va-day-manh-chuyen-doi-so/ Mon, 21 Jul 2025 22:42:53 +0000 https://saovietonline.com/nang-tam-doanh-nghiep-nha-nuoc-can-doi-moi-quan-tri-va-day-manh-chuyen-doi-so/

Trong bối cảnh hiện nay, khu vực kinh tế nhà nước (KTNN) đang đóng vai trò chủ lực trong các ngành, lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế. KTNN không chỉ đảm bảo an ninh năng lượng, an ninh lương thực, ổn định kinh tế vĩ mô và bảo vệ chủ quyền quốc gia, mà còn là lực lượng sản xuất chủ đạo, dẫn dắt và hỗ trợ khu vực tư nhân phát triển. Đặc biệt, các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) đang nắm giữ vai trò trụ cột trong các lĩnh vực then chốt như năng lượng, tài chính, viễn thông, khai thác tài nguyên chiến lược, phát triển hạ tầng kỹ thuật quốc gia.

Không chỉ là lực lượng sản xuất chủ đạo, các DNNN còn là công cụ điều tiết thị trường, hỗ trợ khu vực tư nhân phát triển, góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững và công bằng xã hội. Tuy nhiên, thực tế những năm qua, khu vực DNNN cũng bộc lộ nhiều bất cập. Chỉ số ICOR trung bình của DNNN ở mức 6,1, cao hơn nhiều so với khu vực tư nhân và doanh nghiệp FDI. Nhiều dự án do DNNN làm chủ đầu tư vẫn xảy ra tình trạng chậm tiến độ, đội vốn, hiệu quả thấp, gây lãng phí nguồn lực.

Về quản trị doanh nghiệp, nhiều DNNN vẫn duy trì mô hình quản lý mang tính hành chính, chưa ứng dụng đầy đủ thông lệ quản trị tiên tiến; chuyển đổi số còn chậm, dữ liệu phân tán. Từ Nghị quyết Trung ương 3 khóa IX (năm 2001) về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN, đến Nghị quyết số 12-NQ/TW (năm 2017), Đảng ta luôn nhất quán quan điểm: Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế; DNNN phải trở thành lực lượng vật chất quan trọng, dẫn dắt và hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển.

Luật số 68/2025/QH15 được Quốc hội thông qua và có hiệu lực từ ngày 01/8/2025, đã tạo hành lang pháp lý mới cho việc quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Luật này thể hiện bước tiến quan trọng trong thể chế hóa chủ trương của Đảng: tăng quyền tự chủ, tăng trách nhiệm giải trình, tách bạch chức năng quản lý nhà nước và chức năng đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước.

Để phát huy vai trò, nâng cao hiệu quả KTNN, cần tập trung thực hiện một số giải pháp trọng tâm. Đó là hoàn thiện thể chế; đổi mới quản trị doanh nghiệp; đẩy nhanh cổ phần hóa, thoái vốn; chuyển đổi số, thúc đẩy đổi mới sáng tạo; phân cấp gắn với trách nhiệm giải trình. Việc thực hiện các giải pháp này sẽ giúp khu vực KTNN phát huy vai trò chủ đạo, đóng góp vào sự phát triển bền vững của nền kinh tế.

Trong bối cảnh phát triển mới, KTNN với lực lượng nòng cốt là các DNNN vẫn giữ vai trò nền tảng trong phát triển kinh tế – xã hội. Tuy nhiên, để khu vực này thực sự phát huy vai trò chủ đạo, không còn con đường nào khác ngoài tái cấu trúc toàn diện: vận hành theo nguyên tắc thị trường, quản trị hiện đại, minh bạch, chuyên nghiệp. Việc này đòi hỏi sự nỗ lực từ nhiều phía, bao gồm cả các DNNN, các cơ quan quản lý nhà nước và các bên liên quan khác.

]]>