Dân tộc thiểu số – Saovietonline.com https://saovietonline.com trang thông tin giải trí cập nhật nhanh nhất về giới nghệ sĩ, đời sống người nổi tiếng, sự kiện showbiz, âm nhạc, thời trang, phim ảnh và xu hướng văn hóa tại Việt Nam. Tin tức thời thượng – hình ảnh độc quyền – nội dung gần gũi. Wed, 24 Sep 2025 13:58:20 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/news/2025/08/saovietonline.svg Dân tộc thiểu số – Saovietonline.com https://saovietonline.com 32 32 Nâng tầm cuộc sống phụ nữ dân tộc thiểu số qua lớp học xóa mù chữ https://saovietonline.com/nang-tam-cuoc-song-phu-nu-dan-toc-thieu-so-qua-lop-hoc-xoa-mu-chu/ Wed, 24 Sep 2025 13:58:19 +0000 https://saovietonline.com/nang-tam-cuoc-song-phu-nu-dan-toc-thieu-so-qua-lop-hoc-xoa-mu-chu/

Ở các xã vùng cao như Bao La, Tân Pheo, Đà Bắc, những lớp học đặc biệt được tổ chức sau mỗi mùa gặt, thu hút sự tham gia của hàng chục phụ nữ dân tộc Mường, Dao, Thái. Họ ngồi bên nhau, chăm chú nghe giảng về từng nét chữ đầu tiên. Đây là những lớp “giáo dục tiếp tục sau khi biết chữ”, một phần trong nỗ lực xóa mù chữ và nâng cao năng lực học tập cộng đồng do Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Hòa Bình phối hợp tổ chức.

Từ năm 2020 đến nay, đã có 6 lớp như vậy được mở, với 125 học viên, 100% là nữ và là người dân tộc thiểu số. Họ đến lớp không vì điểm số, không vì bằng cấp mà vì một điều giản dị: Biết đọc tên mình, biết viết đơn xin vay vốn, hiểu những dòng chữ in trên bao thuốc trừ sâu hay đơn khám bệnh.

Ở cái tuổi ngũ tuần, bà Hà Thị Nhung, người dân tộc Thái ở xã Bao La, đã bắt đầu một hành trình mới – học chữ. Trước kia, mỗi lần đi trạm y tế hay nhận hỗ trợ, bà đều phải nhờ người khác điền giúp giấy tờ. Có khi, cán bộ bảo ký tên, bà chỉ biết cười trừ, đưa ngón tay ra lăn dấu. “Tôi xấu hổ lắm. Đến tên mình cũng không viết nổi”, bà Nhung chia sẻ.

Cơ hội đến khi Trung tâm học tập cộng đồng xã Bao La mở lớp học sau biết chữ vào buổi tối, tranh thủ khi người dân đã thu hoạch xong mùa vụ. Lớp học nhỏ, chỉ có một chiếc bàn gỗ dài và những cuốn vở đã ngả màu theo tay học viên. Nhưng với bà Nhung, đó là thế giới khác – nơi bà bắt đầu nhận diện lại chính mình qua từng con chữ.

Tính đến nay, các xã khu vực Hòa Bình cũ đạt tỷ lệ nữ biết chữ là 99,81%, trong đó nữ dân tộc thiểu số và miền núi đạt 99,64% – vượt xa mục tiêu 93% được đặt ra trong Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021-2030. Đây không chỉ là một thành tích trong lĩnh vực giáo dục mà còn là kết quả của quá trình kiên trì xóa mù chữ, giáo dục tiếp tục sau biết chữ và xây dựng mô hình học tập cộng đồng bền vững.

Tuy nhiên, biết chữ không đơn thuần là đích đến mà là điểm khởi đầu cho một hành trình dài hơi – hành trình trao quyền, xây dựng năng lực tự chủ cho người phụ nữ. “Khi người phụ nữ biết đọc, biết viết, họ có thể tiếp cận thông tin, hiểu quyền lợi, chủ động trong kinh tế gia đình và chăm sóc con cái. Quan trọng hơn, họ trở thành người truyền cảm hứng học tập trong bản làng, nơi mà việc cầm bút, đi học với phụ nữ từng là điều xa lạ, thậm chí bị cho là ‘không cần thiết'” – Ông Trần Văn An – Trưởng Phòng Giáo dục thường xuyên, Sở Giáo dục và Đào tạo chia sẻ.

Dù kết quả đạt được rất đáng ghi nhận, nhưng thực tế ở các xã vùng cao vẫn đặt ra không ít thách thức. Ở một số địa bàn đặc biệt khó khăn, việc duy trì kết quả sau xóa mù chữ chưa thật sự ổn định. Nhiều phụ nữ lớn tuổi quanh năm bám nương, ít có điều kiện tiếp cận thông tin vẫn đang đối mặt nguy cơ tái mù.

Những bước đi căn cơ đang dần được triển khai để đảm bảo “biết chữ” không chỉ là thành tích mà phải là nền móng cho sự phát triển. Từ năm 2025, Trường Cao đẳng Sư phạm Hòa Bình được giao nhiệm vụ đưa các nội dung về giới, bình đẳng giới và sức khỏe sinh sản vào chương trình đào tạo giáo viên. Cùng với đó, các trung tâm học tập cộng đồng ở cơ sở cũng đang được mở rộng vai trò. Từ chỗ chỉ dạy chữ sang hướng dẫn kỹ năng sản xuất, sử dụng công nghệ số, khởi nghiệp tại chỗ… Đây là bước đi cho thấy chương trình xoá mù, nâng cao năng lực cộng đồng không chỉ truyền đạt con chữ, mà còn giúp thay đổi tư duy, cách nghĩ, cách làm của đồng bào dân tộc thiểu số.

Từ một chương trình xóa mù chữ ban đầu, Phú Thọ đang chuyển mình từng bước để làm cho “học tập suốt đời” trở thành hiện thực ở cả những bản làng xa nhất. Và ở đó, mỗi người phụ nữ biết chữ, dù chỉ một câu, một dòng, cũng đang viết nên phần tương lai tươi sáng hơn của chính mình.

]]>
Đắk Lắk: Thưởng thức miễn phí món ăn độc đáo của đồng bào dân tộc thiểu số https://saovietonline.com/dak-lak-thuong-thuc-mien-phi-mon-an-doc-dao-cua-dong-bao-dan-toc-thieu-so/ Fri, 19 Sep 2025 07:43:36 +0000 https://saovietonline.com/dak-lak-thuong-thuc-mien-phi-mon-an-doc-dao-cua-dong-bao-dan-toc-thieu-so/

Ngày 26-7, tại xã Ea H’Leo, tỉnh Đắk Lắk đã sôi nổi diễn ra hội thi nấu ăn với các món ăn truyền thống của người đồng bào dân tộc thiểu số. Sự kiện này là một phần trong chuỗi hoạt động chào mừng 78 năm ngày Thương binh – Liệt sĩ (27-7). Hội thi nấu ăn được tổ chức với mục đích thể hiện sự quan tâm và tri ân của cộng đồng đối với những người đã hy sinh và đóng góp cho Tổ quốc.

Các món ăn được chế biến theo phương pháp truyền thống, không chỉ mang lại hương vị đặc trưng của từng dân tộc mà còn thể hiện sự đoàn kết và giao lưu văn hóa giữa các cộng đồng dân tộc thiểu số tại Đắk Lắk. Những món ăn này không chỉ là biểu tượng của văn hóa ẩm thực địa phương mà còn là cầu nối giúp người dân và du khách hiểu hơn về bản sắc văn hóa của các dân tộc thiểu số.

Thông qua hoạt động này, người dân địa phương và du khách có cơ hội trải nghiệm và tìm hiểu sâu sắc hơn về phong tục tập quán, cũng như sự đa dạng văn hóa của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Hội thi nấu ăn là hoạt động thiết thực, góp phần bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số, đồng thời tăng cường sự gắn kết và giao lưu văn hóa giữa các cộng đồng.

Các hoạt động trong hội thi được tổ chức một cách phong phú và đa dạng, thu hút sự tham gia của nhiều người dân và du khách. Không chỉ có các món ăn truyền thống được chế biến và trình bày đẹp mắt, hội thi còn có các chương trình giao lưu văn hóa, trình diễn nghệ thuật và các hoạt động dân gian khác. Tất cả góp phần tạo nên một không gian văn hóa đa dạng và phong phú, thể hiện sự đoàn kết và phát triển của cộng đồng dân tộc thiểu số tại Đắk Lắk.

Thông qua hội thi nấu ăn, tỉnh Đắk Lắk hy vọng sẽ tiếp tục phát huy sự đa dạng văn hóa của các dân tộc thiểu số, tăng cường sự gắn kết và giao lưu văn hóa giữa các cộng đồng, đồng thời tri ân và tôn vinh những người đã hy sinh và đóng góp cho Tổ quốc.

]]>
Quảng Ninh: Phụ nữ chung tay bảo tồn và lan tỏa giá trị văn hóa https://saovietonline.com/quang-ninh-phu-nu-chung-tay-bao-ton-va-lan-toa-gia-tri-van-hoa/ Thu, 18 Sep 2025 14:35:18 +0000 https://saovietonline.com/quang-ninh-phu-nu-chung-tay-bao-ton-va-lan-toa-gia-tri-van-hoa/

Hội Liên hiệp Phụ nữ (LHPN) Quảng Ninh đã và đang tích cực triển khai nhiều hoạt động thiết thực nhằm thực hiện Nghị quyết số 17-NQ/TU của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Quảng Ninh trở thành nguồn lực nội sinh, động lực cho phát triển nhanh, bền vững. Các hoạt động này không chỉ góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc mà còn lan tỏa tinh thần sáng tạo và hành động văn minh trong thời đại số.

Trong các dịp lễ, tết, các hoạt động quan trọng, chị em phụ nữ thường mặc trang phụ áo dài nhằm tôn vinh giá trị văn hóa truyền thống và lan tỏa tình yêu đối với tà áo dài.
Trong các dịp lễ, tết, các hoạt động quan trọng, chị em phụ nữ thường mặc trang phụ áo dài nhằm tôn vinh giá trị văn hóa truyền thống và lan tỏa tình yêu đối với tà áo dài.

Từ năm 2022 đến nay, Hội LHPN Quảng Ninh đã chủ động xây dựng chương trình hành động và triển khai hiệu quả nhiều mô hình, hoạt động thiết thực. Các cấp hội phụ nữ trong tỉnh đã tăng cường tuyên truyền sâu rộng nội dung Nghị quyết 17-NQ/TU, gắn với các phong trào thi đua như ‘Xây dựng hình ảnh phụ nữ thời đại mới’, ‘Gia đình 5 không, 3 sạch’, ‘Gia đình hạnh phúc’… Qua đó, các đặc trưng con người Quảng Ninh và 6 giá trị đặc trưng của tỉnh đã được lan tỏa rộng khắp tới đông đảo cán bộ, hội viên phụ nữ toàn tỉnh.

Hội viên phụ nữ phường Uông Bí tham gia chương trình giao lưu văn nghệ - dân vũ chào mừng kỷ niệm 24 năm Ngày Gia đình Việt Nam 28/6.
Hội viên phụ nữ phường Uông Bí tham gia chương trình giao lưu văn nghệ – dân vũ chào mừng kỷ niệm 24 năm Ngày Gia đình Việt Nam 28/6.

Hội LHPN Quảng Ninh đã thành lập 23 CLB gìn giữ văn hóa truyền thống tại các xã, phường như Ba Chẽ, Bình Liêu, Tiên Yên, Đầm Hà, Uông Bí, Quảng Yên… Các sinh hoạt này vừa là nơi hội tụ văn hóa cộng đồng, vừa là ‘lớp học truyền thống’ dành cho thế hệ trẻ tại mỗi vùng quê. Bên cạnh đó, gần 2.000 mô hình, CLB văn hóa, văn nghệ – thể dục, thể thao cộng đồng đã được duy trì thường xuyên, tạo nên không gian rèn luyện sức khỏe và gắn kết phụ nữ toàn tỉnh. Các dịp 8/3, 20/10, hay những ngày lễ lớn, các cấp hội cũng tổ chức nhiều chương trình mang đậm bản sắc, như: Tuần lễ áo dài, ngày hội trang phục các dân tộc thiểu số…

Nhiều năm qua, mô hình "Biến rác thành tiền" của Hội LHPN phường Đông Triều được thực hiện để gây quỹ để ủng hộ cho hội viên phụ nữ và người dân có hoàn cảnh trên địa bàn.
Nhiều năm qua, mô hình “Biến rác thành tiền” của Hội LHPN phường Đông Triều được thực hiện để gây quỹ để ủng hộ cho hội viên phụ nữ và người dân có hoàn cảnh trên địa bàn.

Hội LHPN Quảng Ninh cũng đặc biệt chú trọng bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng sống cho hội viên, nhất là với phụ nữ dân tộc thiểu số. Nhiều hội thảo, chương trình tập huấn về tổ chức cuộc sống gia đình, phòng chống tệ nạn xã hội, bạo lực gia đình, chăm sóc sức khỏe sinh sản, kỹ năng làm cha mẹ… đã được tổ chức rộng khắp. Hiện, 16 mô hình ‘Chăm sóc, giáo dục trẻ thơ toàn diện’ đã được thành lập tại vùng miền núi, dân tộc thiểu số. Ngoài ra, nhiều mô hình giáo dục gia đình tiếp tục được nhân rộng, như: ‘Nuôi dạy con tốt’, ‘Ông bà gương mẫu – Con cháu thảo hiền’; tư vấn, giáo dục tiền hôn nhân, kỹ năng sống cho trẻ em gái, phòng chống bạo lực, xâm hại phụ nữ và trẻ em…

Các chương trình: ‘Mẹ đỡ đầu’, ‘Đồng hành cùng phụ nữ biên cương’… tiếp tục phát huy hiệu quả rõ nét. Riêng chương trình ‘Mẹ đỡ đầu’ từ năm 2022 đến nay đã hỗ trợ, đỡ đầu cho 720 trẻ mồ côi có hoàn cảnh khó khăn với tổng kinh phí vận động hơn 5 tỷ đồng.

Không dừng lại ở việc gìn giữ, phụ nữ Quảng Ninh còn tiên phong trong lan tỏa giá trị văn hóa bằng nhiều cách làm sáng tạo, thích ứng với thời đại công nghệ số. Với hơn 1.000 nhóm zalo, fanpage và các nền tảng mạng xã hội của Hội Phụ nữ các cấp, hàng nghìn thông tin tích cực, câu chuyện đẹp, hình ảnh người tốt – việc tốt được lan truyền hằng ngày, trở thành kênh tuyên truyền hiệu quả, thân thiện, gần gũi với cộng đồng. Các cuộc thi: ‘Phụ nữ khởi nghiệp sáng tạo phát huy tài nguyên bản địa’, ‘Phụ nữ khởi nghiệp sáng tạo và chuyển đổi xanh’… khơi dậy tinh thần đổi mới, giúp nhiều sản phẩm OCOP của các cơ sở sản xuất do phụ nữ làm chủ mở rộng thị trường tiêu thụ. Hiện nay, tổng dư nợ ủy thác Ngân hàng CSXH do Hội Phụ nữ quản lý đạt hơn 2.480 tỷ đồng, cao nhất trong các tổ chức chính trị – xã hội, hỗ trợ trên 35.500 hộ phụ nữ phát triển kinh tế bền vững.

Hội Phụ nữ các cấp còn đẩy mạnh phong trào thi đua ‘Xây dựng hình ảnh người phụ nữ Quảng Ninh thời đại mới có tri thức, đạo đức, sức khỏe, năng động, sáng tạo, văn minh, thân thiện’ gắn với học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Hội viên phụ nữ thực hiện tốt hương ước, quy ước, nếp sống văn minh nơi công sở và địa phương nơi cư trú; tích cực rèn luyện phẩm chất đạo đức phụ nữ Việt Nam: ‘Tự tin – Tự trọng – Trung hậu – Đảm đang’.

Trong thời gian tới, Hội LHPN Quảng Ninh sẽ tiếp tục phát huy những kết quả đã đạt được, khắc phục các tồn tại, hạn chế; quán triệt và triển khai thực hiện tốt Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp, nhất là ý kiến chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư, Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

]]>
Nâng cao chăm sóc sức khỏe cho cộng đồng dân tộc thiểu số qua mô hình y tế lưu động https://saovietonline.com/nang-cao-cham-soc-suc-khoe-cho-cong-dong-dan-toc-thieu-so-qua-mo-hinh-y-te-luu-dong/ Thu, 21 Aug 2025 02:29:55 +0000 https://saovietonline.com/nang-cao-cham-soc-suc-khoe-cho-cong-dong-dan-toc-thieu-so-qua-mo-hinh-y-te-luu-dong/

Trong nỗ lực thu hẹp khoảng cách chăm sóc sức khỏe tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đặc biệt là đối với nhóm phụ nữ mang thai và bà mẹ nuôi con nhỏ, mô hình y tế lưu động và tư vấn dinh dưỡng cộng đồng đang được triển khai mạnh mẽ. Tại nhiều xã vùng sâu vùng xa, việc tiếp cận dịch vụ y tế cơ bản, đặc biệt là chăm sóc dinh dưỡng cho phụ nữ và trẻ em, vẫn còn nhiều rào cản như khoảng cách địa lý, thiếu nhân lực, phương tiện và rào cản ngôn ngữ.

Từng bước nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khỏe vùng dân tộc thiểu số miền núi
Từng bước nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khỏe vùng dân tộc thiểu số miền núi

Trước những thách thức này, mô hình y tế lưu động và tư vấn dinh dưỡng tại chỗ – ngay tại thôn bản – đã được triển khai nhằm đưa dịch vụ y tế đến gần hơn với người dân. Thay vì chỉ tập trung tại trạm y tế xã, nhiều địa phương đã tổ chức các đội y tế cơ động, phối hợp cùng cán bộ y tế thôn bản để cung cấp viên sắt, hướng dẫn thực hành bữa ăn dinh dưỡng, cân đo đánh giá thể trạng định kỳ và tư vấn chăm sóc thai sản tận nơi cho các bà mẹ.

Tư vấn thăm hộ gia đình tại Hòa Bình với sự hỗ trợ của Tổ chức Tầm nhìn Thế giới
Tư vấn thăm hộ gia đình tại Hòa Bình với sự hỗ trợ của Tổ chức Tầm nhìn Thế giới

Mô hình này không chỉ giúp phụ nữ dân tộc thiểu số được tiếp cận dịch vụ y tế đầy đủ hơn, mà còn góp phần nâng cao nhận thức cộng đồng về dinh dưỡng – điều vốn còn rất hạn chế tại nhiều vùng. Theo TS.BS Huỳnh Nam Phương, Trưởng Phòng Quản lý khoa học – Viện Dinh dưỡng, ngành Y tế và chính quyền địa phương đã và đang triển khai nhiều hoạt động nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc dinh dưỡng cho phụ nữ và trẻ em vùng dân tộc thiểu số.

Tổ chức lớp truyền thông dinh dưỡng, hướng dẫn thực hành nấu ăn cho bà mẹ dân tộc tại cộng đồng tỉnh Điện Biên
Tổ chức lớp truyền thông dinh dưỡng, hướng dẫn thực hành nấu ăn cho bà mẹ dân tộc tại cộng đồng tỉnh Điện Biên

Các hoạt động này gồm bổ sung viên sắt/axit folic định kỳ hoặc viên đa vi chất cho phụ nữ mang thai và sau sinh tại tuyến xã, tư vấn dinh dưỡng, chăm sóc thai kỳ, nuôi con bằng sữa mẹ thông qua mạng lưới cán bộ y tế thôn bản. Mô hình chăm sóc dinh dưỡng trong 1000 ngày đầu đời được áp dụng tại nhiều xã vùng III trong khuôn khổ của Dự án 7 Chương trình Mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi theo mô hình chuẩn.

Đầu tư vào dinh dưỡng cho bé trong giai đoạn 1000 ngày đầu đời chính là sự đầu tư tốt nhất cho sự phát triển cả đời của bé
Đầu tư vào dinh dưỡng cho bé trong giai đoạn 1000 ngày đầu đời chính là sự đầu tư tốt nhất cho sự phát triển cả đời của bé

Đến năm 2025, sau 3 năm triển khai, đã có 687 xã có mô hình đạt chuẩn trên tổng số 1354 xã vùng III toàn quốc. Một số địa phương còn phối hợp với tổ chức quốc tế như Tầm nhìn thế giới, Save the Children thực hiện mô hình ‘Câu lạc bộ dinh dưỡng’, hỗ trợ thay đổi hành vi tích cực.

Tuy nhiên, việc triển khai vẫn gặp không ít khó khăn về nguồn lực, nhận thức cộng đồng và tính bền vững. Vì vậy, rất cần sự hỗ trợ liên ngành và đầu tư lâu dài để đảm bảo hiệu quả. Cán bộ y tế thôn bản giữ vai trò nòng cốt trong mô hình này, họ là người đồng bào, hiểu ngôn ngữ, nếp sống và tập quán nên dễ dàng truyền đạt kiến thức dinh dưỡng và tư vấn sức khỏe một cách gần gũi, hiệu quả hơn.

Bên cạnh các dịch vụ y tế trực tiếp, một trong những yếu tố then chốt để nâng cao hiệu quả chăm sóc dinh dưỡng là truyền thông thay đổi hành vi. Nhiều bà mẹ người dân tộc thiểu số vẫn duy trì thói quen ăn uống đơn điệu, kiêng khem sai cách trong thai kỳ hoặc sau sinh, cho con ăn dặm sớm, dẫn đến thiếu vi chất nghiêm trọng.

Do đó, việc lồng ghép truyền thông về dinh dưỡng vào sinh hoạt cộng đồng là cách làm đang được một số tỉnh vùng cao triển khai hiệu quả. Chẳng hạn, tại các buổi họp bản, hội phụ nữ hoặc phiên chợ vùng cao, cán bộ y tế có thể phát tài liệu hướng dẫn, kể chuyện dinh dưỡng bằng tiếng dân tộc, tổ chức trò chơi kiến thức để giúp người dân dễ nhớ, dễ làm theo.

Dù còn nhiều thách thức, mô hình y tế lưu động và tư vấn dinh dưỡng tại bản đang chứng minh tính phù hợp với địa bàn vùng cao, vùng đặc biệt khó khăn. Việc đầu tư thêm nguồn lực, trang thiết bị di động và chính sách hỗ trợ cho cán bộ y tế thôn bản sẽ là yếu tố then chốt để mô hình này lan rộng, tạo nền tảng vững chắc cho chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em vùng dân tộc thiểu số.

]]>
Thái Nguyên: Phát triển kinh tế – xã hội cho vùng dân tộc thiểu số và miền núi https://saovietonline.com/thai-nguyen-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-cho-vung-dan-toc-thieu-so-va-mien-nui/ Tue, 19 Aug 2025 06:31:31 +0000 https://saovietonline.com/thai-nguyen-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-cho-vung-dan-toc-thieu-so-va-mien-nui/

Thái Nguyên – một tỉnh miền núi phía Bắc của Việt Nam – đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể trong công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Với nhiều giải pháp đồng bộ và hiệu quả, tỉnh đã cải thiện đáng kể hạ tầng kỹ thuật, văn hóa – xã hội thiết yếu như điện, đường, trường học, trạm y tế, nhà văn hóa tại các bản làng.

Truyền dạy đàn tính hát then cho lớp trẻ.
Truyền dạy đàn tính hát then cho lớp trẻ.

Những nỗ lực này không chỉ nâng cao mức sống của người dân mà còn làm thay đổi căn bản tập quán canh tác và bộ mặt bản làng. Các bản làng dân tộc thiểu số tại Thái Nguyên nay đã có những gam màu tươi sáng với những ngôi nhà mới xây dựng, đường sá được mở rộng và trải bê tông, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu và phát triển kinh tế. Việc đầu tư có trọng tâm trọng điểm, phù hợp với điều kiện, tiềm năng thế mạnh, phong tục tập quán của đồng bào đã thu được kết quả tích cực.

Bản Tày xã Đồng Phúc dưới nắng ban mai.
Bản Tày xã Đồng Phúc dưới nắng ban mai.

Công tác vận động quần chúng phát huy quyền làm chủ, sự tham gia chủ động của cộng đồng và người dân đã khơi dậy tinh thần nỗ lực vươn lên của đồng bào. Nhờ đó, tỷ lệ hộ nghèo giảm sâu, khoảng cách về mức sống so với bình quân chung của tỉnh từng bước thu hẹp. Sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hóa của các vùng dân tộc có bước phát triển mới.

Bản Tèn xã Văn Lăng hứa hẹn là một điểm đến mới.
Bản Tèn xã Văn Lăng hứa hẹn là một điểm đến mới.

Tỉnh Thái Nguyên cũng đẩy mạnh việc trang bị kiến thức về khoa học kỹ thuật, hỗ trợ vật tư phân bón, nguồn cây, con giống chuyển đổi cây trồng vật nuôi, phát triển ngành nghề, làng nghề truyền thống. Hệ thống hạ tầng viễn thông được xây dựng tạo điều kiện cho bà con tiếp cận các nền tảng công nghệ số. Một số sản phẩm nông nghiệp của tỉnh đã có giá trị thương phẩm cao, trong đó chè là cây trồng chủ lực.

Nhiều địa phương đã tập trung phát triển và đã cho sản lượng, giá trị thương phẩm cao với các loại cây trồng như na, bưởi, quế… Sản phẩm truyền thống như dệt, may trang phục dân tộc, mật ong, gạo nếp vải, cốm, miến dong, rượu men lá… đã đáp ứng yêu cầu về chất lượng, thị hiếu người tiêu dùng và đã đạt tiêu chuẩn OCOP.

Bên cạnh những thành tựu, vẫn còn một số khó khăn và thách thức mà tỉnh cần phải vượt qua. Các vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi địa hình trải rộng, mật độ dân cư không tập trung, trình độ sản xuất còn dựa nhiều vào yếu tố tự nhiên, phương thức canh tác giản đơn, giá trị kinh tế thấp, ít cơ hội tiếp cận việc làm phi nông nghiệp.

Cơ sở hạ tầng nhiều xã phía Bắc của tỉnh chưa được đầu tư hoàn thiện. Cơ chế, chính sách chưa đủ hấp dẫn thu hút doanh nghiệp có tiềm lực kinh tế mạnh đầu tư vào công nghiệp chế biến, liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị tại các xã vùng sâu, vùng xa.

Tuy nhiên, bản sắc văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số tại Thái Nguyên vẫn được giữ gìn và phát huy. Những nét đẹp mang giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào như ngôn ngữ, trang phục truyền thống, phong tục tập quán, nghi lễ tín ngưỡng, ẩm thực, dân ca dân vũ được các cấp ủy, chính quyền tạo điều kiện cho bà con bảo tồn và phát huy.

Mới đây, tỉnh Thái Nguyên đã ban hành đề án phát triển du lịch cộng đồng với nhiều triển vọng về các điểm đến mới và tạo thêm việc làm cho người dân. Làng du lịch sinh thái nhà sàn Thái Hải, Làng du lịch cộng đồng xóm Mỏ Gà, Làng văn hóa dân tộc bản Quyên… có thể coi là hình mẫu để nâng cao, nhân rộng.

Trong thời gian tới, tỉnh cần tiếp tục quan tâm và có những giải pháp hiệu quả hơn nữa để phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi một cách bền vững.

]]>
Phụ nữ dân tộc thiểu số làm giàu từ măng tre nhờ áp dụng kỹ thuật tiên tiến https://saovietonline.com/phu-nu-dan-toc-thieu-so-lam-giau-tu-mang-tre-nho-ap-dung-ky-thuat-tien-tien/ Mon, 04 Aug 2025 07:14:33 +0000 https://saovietonline.com/phu-nu-dan-toc-thieu-so-lam-giau-tu-mang-tre-nho-ap-dung-ky-thuat-tien-tien/

Ở tỉnh Lào Cai, nhiều phụ nữ dân tộc thiểu số đã biến tiềm năng núi rừng thành hàng hóa, áp dụng khoa học kỹ thuật vào xây dựng thương hiệu sản phẩm, góp phần phát triển kinh tế xanh, bền vững và tạo việc làm cho lao động tại địa phương.

Một công đoạn chế biến măng của bà con Hợp tác xã Măng Dần Thàng
Một công đoạn chế biến măng của bà con Hợp tác xã Măng Dần Thàng

Trước đây, đồng bào dân tộc thiểu số tại các xã Văn Bàn, Chiềng Ken, Minh Lương, Nậm Chày, Nậm Xé đã gắn bó mật thiết với những rừng măng. Măng không chỉ giúp họ nuôi sống gia đình mà còn gìn giữ một phần văn hóa bản địa. Tuy nhiên, cuộc sống gắn liền với măng cũng đồng nghĩa với sự bấp bênh: sản lượng không ổn định, giá cả bị thao túng bởi thương lái và thiếu cơ hội vươn ra thị trường lớn.

Được tiếp cận với kỹ thuật canh tác tiên tiến, măng của hợp tác xã Nậm Xé có năng suất cao hơn và chất lượng tốt hơn
Được tiếp cận với kỹ thuật canh tác tiên tiến, măng của hợp tác xã Nậm Xé có năng suất cao hơn và chất lượng tốt hơn

Những năm gần đây, cùng với sự phát triển của kinh tế hàng hóa, nhiều phụ nữ dân tộc thiểu số tại địa phương đã tham gia vào các dự án phát triển ngành măng, đưa sản phẩm từng bước chinh phục thị trường. Chị Triệu Thị Lai, người dân tộc Dao ở xã Nậm Xé, tỉnh Lào Cai, là một minh chứng sinh động cho hành trình thay đổi đó. Suốt nhiều năm, cuộc sống của chị gắn với những nhịp thở nơi rừng măng. Với 3-4 hecta rừng, gia đình chị dựa vào những mùa thu hoạch măng để mang lại phần lớn thu nhập hằng năm.

Phát triển kinh tế hàng hóa từ rừng núi: Hướng đi bền vững cho phụ nữ dân tộc thiểu số- Ảnh 3.
Phát triển kinh tế hàng hóa từ rừng núi: Hướng đi bền vững cho phụ nữ dân tộc thiểu số- Ảnh 3.

Tuy nhiên, mọi thứ bắt đầu thay đổi từ năm 2020, khi chị tham gia Dự án Thúc đẩy Bình đẳng Giới thông qua Nâng cao hiệu quả kinh tế sản xuất Nông nghiệp và Phát triển du lịch. Thông qua dự án, chị được tiếp cận với kỹ thuật canh tác tiên tiến, cải tạo đất, giúp tối ưu hóa việc trồng măng, tăng năng suất và chất lượng măng. Đặc biệt, chị đã tìm được đầu ra mới ngoài địa phương. Việc bán măng ra các tỉnh lân cận đã giúp giá măng đáng kể, từ 25.000 đồng/kg lên 35.000 đồng/kg măng đã bóc vỏ. Nhờ đó, thu nhập từ măng của gia đình chị tăng từ 20 triệu đồng một vụ lên 30 triệu đồng một vụ cho diện tích trồng 3 hecta.

Hợp tác xã Dần Thàng tạo việc làm ổn định cho khoảng 15–20 người dân và thu nhập cho hàng trăm hộ liên kết
Hợp tác xã Dần Thàng tạo việc làm ổn định cho khoảng 15–20 người dân và thu nhập cho hàng trăm hộ liên kết

Năm 2024, chị Triệu Thị Lai thực hiện mục tiêu dài hơi hơn, từ một người nông dân trồng măng, chị quyết tâm gây dựng một mô hình kinh tế tập thể quy mô nhỏ, do chính những người phụ nữ dân tộc thiểu số làm chủ. Nhận được sự đồng hành của chính quyền địa phương, của các cấp Hội phụ nữ, Công ty Tư vấn giải pháp Nông nghiệp và Du lịch CRED, vợ chồng chị Lai cùng 9 hộ gia đình khác trong xã đã thành lập Hợp tác xã Măng Nậm Xé.

Từ những rừng măng bạt ngàn, những ngườ phụ nữ vùng cao đang nỗ lực vươn lên, đón nhận những cơ hội phát triển mới.
Từ những rừng măng bạt ngàn, những ngườ phụ nữ vùng cao đang nỗ lực vươn lên, đón nhận những cơ hội phát triển mới.

Thông qua hợp tác xã, các hộ dân có cơ hội được đào tạo chuyên sâu về kỹ thuật canh tác, bóc vỏ và thu hoạch măng, đồng thời ký kết hợp đồng lâu dài với một công ty thu mua. Đây là những bước tiến quan trọng giúp các thành viên trong hợp tác xã, từng bước thoát khỏi sự lệ thuộc vào thương lái.

Người phụ nữ dân tộc Dao gắn bó mật thiết với những rừng măng.
Người phụ nữ dân tộc Dao gắn bó mật thiết với những rừng măng.

Sự thành công và chuyển biến tích cực trong gia đình chị Lai và các hộ lân cận đã tạo động lực mạnh mẽ cho những người phụ nữ khác ở các xã lân cận, thúc đẩy họ chủ động thành lập các hợp tác xã riêng, nắm bắt cơ hội từ giá trị đang ngày càng tăng lên của ngành măng.

Tại xã Nậm Chày, Hợp tác xã Măng Dần Thàng do chị Hà Thị Thu Hương làm Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng Giám đốc cũng đang tạo dựng cơ hội kinh doanh và việc làm ổn định, bền vững, giúp bà con vùng núi khó khăn vươn lên thoát nghèo.

Hợp tác xã Măng Dần Thàng được thành lập vào tháng 8/2024 với tổng số 15 thành viên, 100% đều là chị em phụ nữ dân tộc thiểu số tại địa phương. Hợp tác xã hiện nay đang liên kết sản xuất măng với 4 tổ hợp tác, bao gồm 161 hộ dân tại xã Dần Thàng.

Năm 2024, Hợp tác xã đã ký kết thỏa thuận hợp tác 10 năm với Công ty Kim Bôi về việc thu mua sản phẩm măng đạt chất lượng do Hợp tác xã sản xuất. Được tham gia các chương trình tập huấn, chuyển giao công nghệ chế biến và bảo quản măng để hình thành chuỗi chế biến khép kín, tiêu thụ ổn định, hợp tác xã Dần Thàng đã đầu tư 400 triệu đồng xây dựng nhà máy 160m², có thể xử lý tới 1.000 tấn măng tươi mỗi năm.

Chặng đường hình thành, phát triển hợp tác xã của chị Triệu Thị Lai, chị Hà Thị Thu Hương cho thấy sự cần thiết của sự liên kết, hợp tác đồng hành giữa nông dân, hợp tác xã, doanh nghiệp và nhà nước, trong quá trình đưa sản phẩm của núi rừng tiếp cận với thị trường trong nước.

Tạo việc làm và mở ra cơ hội phát triển kinh tế cho phụ nữ dân tộc thiểu số là một trong những mục tiêu quan trọng của các dự án phát triển ngành măng. Không chỉ hướng tới lợi nhuận, mô hình hợp tác xã măng còn mang giá trị xã hội lớn.

Từ chỗ lao động đơn lẻ, manh mún, người dân, nhất là phụ nữ dân tộc thiểu số được tổ chức sản xuất bài bản, có thu nhập ổn định, có cơ hội học hỏi và thể hiện vai trò lãnh đạo. Nhờ những thay đổi tích cực trong ngành măng cùng với quyết tâm không ngừng nghỉ của những người phụ nữ như chị Triệu Thị Lai và chị Hà Thị Thu Hương, những ngọn măng trong rừng núi Lào Cai không chỉ đơn thuần là kế sinh nhai mà còn góp phần tạo nên cho sự phát triển bền vững cho cộng đồng.

Tại các vùng miền, người tiêu dùng ngày càng ưa chuộng đặc sản vùng cao với tiêu chuẩn an toàn, truy xuất nguồn gốc và giá trị văn hóa đi kèm. Những sản phẩm măng rừng với vị ngọt thanh, độ giòn đặc trưng và được chế biến theo quy trình sạch của Lào Cai đang dần khẳng định vị thế không chỉ tại các chợ truyền thống, mà có mặt tại các hội chợ, trên quầy kệ của các siêu thị, và trên các nền tảng bán hàng thương mại điện tử.

Tiếp nối hành trình phát triển kinh tế hàng hóa vùng dân tộc thiểu số và miền núi, cần có chính sách dài hạn từ Nhà nước, từ Bộ Công Thương và các Bộ, ngành, cơ quan, tổ chức trong việc hỗ trợ hạ tầng sản xuất, vốn tín dụng ưu đãi, chuyển giao khoa học công nghệ, xúc tiến thương mại và bảo hộ thương hiệu. Quan trọng hơn cả là niềm tin vào năng lực của những người phụ nữ vùng cao, trao cho họ cơ hội để góp sức phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

]]>
Sơn La: Cuộc sống đồng bào dân tộc thiểu số ngày càng ấm no https://saovietonline.com/son-la-cuoc-song-dong-bao-dan-toc-thieu-so-ngay-cang-am-no/ Thu, 31 Jul 2025 05:43:06 +0000 https://saovietonline.com/son-la-cuoc-song-dong-bao-dan-toc-thieu-so-ngay-cang-am-no/

Trong 6 tháng đầu năm 2025, tỉnh Sơn La đã đạt được nhiều kết quả tích cực trong công tác dân tộc, đặc biệt là trong việc cải thiện đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số. Theo báo cáo của Sở Dân tộc và Tôn giáo tỉnh Sơn La, đời sống của đồng bào các dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh đã ổn định và có nhiều chuyển biến tích cực trong các mặt từ nhà ở, hạ tầng, y tế đến giáo dục và an ninh trật tự.

Công tác chăm lo sức khỏe đồng bào dân tộc được quan tâm. Ảnh: Văn Ngọc
Công tác chăm lo sức khỏe đồng bào dân tộc được quan tâm. Ảnh: Văn Ngọc

Một trong những điểm nhấn quan trọng trong 6 tháng đầu năm là việc triển khai quyết liệt chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về việc đẩy mạnh xóa nhà tạm, nhà dột nát. Toàn tỉnh Sơn La đã hỗ trợ xóa nhà tạm, nhà dột nát cho trên 3.000 hộ gia đình, trong đó có trên 2.600 hộ được xây mới và trên 400 hộ được sửa chữa. Điều này đã mang lại mái ấm kiên cố cho hàng ngàn gia đình đồng bào dân tộc thiểu số, chấm dứt tình trạng sống trong những căn nhà dột nát, tạm bợ.

Bên cạnh đó, hệ thống kết cấu hạ tầng cơ sở ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số tiếp tục được đầu tư xây dựng và nâng cấp, tạo điều kiện thuận lợi cho giao thương, sản xuất và sinh hoạt của người dân. Công tác bảo tồn, giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc cũng được chú trọng, góp phần làm phong phú đời sống tinh thần của cộng đồng.

Chất lượng giáo dục vùng đồng bào dân tộc thiểu số đang từng bước nâng lên, quy mô trường, lớp học ngày càng mở rộng, đảm bảo quyền được học tập của con em đồng bào. Trong lĩnh vực y tế và chăm sóc sức khỏe, nhiều chuyển biến tích cực đã được ghi nhận. Đặc biệt, 100% người dân thuộc hộ nghèo, cận nghèo, người dân tộc thiểu số sống ở vùng khó khăn và người dân sống ở vùng đặc biệt khó khăn đã được cấp miễn phí thẻ bảo hiểm y tế.

Tình hình an ninh, trật tự xã hội vùng dân tộc thiểu số cơ bản ổn định, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế – xã hội. Những kết quả đạt được trong 6 tháng đầu năm 2025 là minh chứng rõ nét cho sự quan tâm, đầu tư và định hướng đúng đắn của tỉnh Sơn La trong công tác dân tộc, mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc và bền vững hơn cho đồng bào các dân tộc thiểu số trên địa bàn.

]]>
Xã vùng cao Mai Châu đổi mới với đội ngũ cán bộ đáp ứng thách thức phát triển https://saovietonline.com/xa-vung-cao-mai-chau-doi-moi-voi-doi-ngu-can-bo-dap-ung-thach-thuc-phat-trien/ Sun, 27 Jul 2025 08:18:14 +0000 https://saovietonline.com/xa-vung-cao-mai-chau-doi-moi-voi-doi-ngu-can-bo-dap-ung-thach-thuc-phat-trien/

Sau gần ba tuần chính thức vận hành theo mô hình chính quyền địa phương hai cấp, xã vùng cao Mai Châu, tỉnh Phú Thọ, đang từng bước khẳng định tinh thần đổi mới, chủ động thích ứng và quyết tâm xây dựng bộ máy gần dân, phục vụ Nhân dân ngày càng tốt hơn.

Khu vực xã Thành Sơn (cũ), xã Mai Châu hiện nay được định hướng phát triển du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng.
Khu vực xã Thành Sơn (cũ), xã Mai Châu hiện nay được định hướng phát triển du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng.

Xã Mai Châu được hình thành trên cơ sở sáp nhập toàn bộ diện tích tự nhiên, dân số của thị trấn Mai Châu, các xã Nà Phòn, Thành Sơn, Tòng Đậu và 5 xóm thuộc xã Đồng Tân. Mô hình mới, bộ máy mới, cùng với đặc thù 84% dân số là người dân tộc thiểu số, địa hình đồi núi, chia cắt đặt ra yêu cầu cao về vận hành bộ máy thông suốt, gần dân, hiệu quả.

Đảng bộ xã có 73 tổ chức cơ sở đảng trực thuộc với hơn 2.000 đảng viên. Đảng ủy xã kịp thời cập nhật các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của Trung ương, tỉnh để triển khai thực hiện tại địa phương. Đặc biệt, chú trọng công tác quán triệt tư tưởng chính trị để đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cấp ủy và người đứng đầu nhận thức đầy đủ về yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

Trong bối cảnh vận hành mô hình mới, công tác xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được đặc biệt quan tâm. Bộ máy HĐND, UBND xã đã được công bố tại kỳ họp HĐND xã lần thứ nhất. Đảng uỷ xã cũng đã công bố quyết định thành lập các tổ chức đảng trực thuộc và nhân sự chủ chốt.

Tinh thần phục vụ Nhân dân được thể hiện rõ tại Trung tâm Phục vụ hành chính công xã. Từ ngày 1-18/7, Trung tâm đã tiếp nhận và giải quyết 227 hồ sơ. Để thuận tiện cho công dân, xã đã bố trí 2 cán bộ tiếp nhận hồ sơ tại trụ sở xã cũ. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện còn gặp không ít khó khăn, điển hình là trong 226 hồ sơ TTHC đã giải quyết có 8 hồ sơ quá hạn. Hệ thống thông tin một cửa điện tử đường truyền chậm, xử lý được một bước quy trình phải đợi rất lâu, cán bộ không kịp tích chuyển đúng thời hạn.

Từ thực tế đó, xã đề nghị được đầu tư trang thiết bị phục vụ hoạt động của Trung tâm và quy chuẩn các hệ thống hướng dẫn biển, bảng, mô hình hoạt động. Bộ Tài chính sớm cung cấp tài khoản đăng ký kinh doanh cho cán bộ xử lý hồ sơ cấp xã để sớm giải quyết cho công dân.

Đảng bộ xã đang tích cực chuẩn bị tổ chức Đại hội nhiệm kỳ 2025-2030, trọng tâm là xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới và xác định rõ định hướng phát triển trong 5 năm tới. Định hướng chính của xã là tập trung phát triển du lịch, dịch vụ và nông nghiệp chất lượng cao.

Bộ máy mới, mô hình mới, trước mắt không tránh khỏi những vướng mắc, nhưng với tinh thần chủ động, đổi mới, thích ứng sẽ giải quyết mọi khó khăn để ổn định và hoà nhịp cùng cả tỉnh, cả nước trong kỷ nguyên mới.

]]>
Thách thức an ninh phi truyền thống ở vùng dân tộc thiểu số Việt Nam https://saovietonline.com/thach-thuc-an-ninh-phi-truyen-thong-o-vung-dan-toc-thieu-so-viet-nam/ Fri, 25 Jul 2025 10:41:58 +0000 https://saovietonline.com/thach-thuc-an-ninh-phi-truyen-thong-o-vung-dan-toc-thieu-so-viet-nam/

Các vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) tại Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức bắt nguồn từ các yếu tố an ninh phi truyền thống. Trong số này, biến đổi khí hậu đang gây ra những tác động nghiêm trọng đến đời sống và sản xuất của người dân. Các hiện tượng thời tiết cực đoan như lũ lụt, hạn hái và nắng nóng đã trở nên thường xuyên hơn, làm ảnh hưởng đến nguồn nước, đất đai và mùa màng.

Dịch bệnh cũng là một mối đe dọa lớn đối với sức khỏe và kinh tế của các cộng đồng DTTS. Sự lây lan nhanh chóng của các bệnh truyền nhiễm, trong đó có COVID-19, đã làm lộ ra những hạn chế trong hệ thống y tế và năng lực phòng chống dịch bệnh tại các khu vực này. Điều này không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của người dân mà còn làm gián đoạn các hoạt động kinh tế và xã hội.

Ngoài ra, di cư tự do cũng đang trở thành một vấn đề cần quan tâm. Nhiều người dân từ các vùng DTTS di cư đến các đô thị lớn để tìm kiếm cơ hội việc làm và cuộc sống tốt hơn. Tuy nhiên, điều này cũng tạo ra áp lực lên các dịch vụ công cộng và hạ tầng tại các đô thị, đồng thời làm gia tăng nguy cơ bị bóc lột lao động và buôn bán người.

Buôn bán người và tội phạm xuyên quốc gia cũng là những thách thức cần được giải quyết. Các nhóm tội phạm thường lợi dụng sự thiếu hiểu biết và khó khăn kinh tế của người dân DTTS để thực hiện các hoạt động bất hợp pháp. Tội phạm và khủng bố cũng đang gia tăng ở một số khu vực, làm đe dọa an ninh và ổn định xã hội.

Để giải quyết những thách thức này một cách hiệu quả, việc ban hành và thực thi các chính sách đồng bộ, toàn diện là hết sức cần thiết. Các chính sách này cần được xây dựng dựa trên sự hiểu biết sâu sắc về đặc thù văn hóa, xã hội và kinh tế của từng vùng DTTS. Sự tham gia và đóng góp của người dân địa phương trong quá trình xây dựng chính sách cũng là một yếu tố quan trọng để đảm bảo tính thực tiễn và khả thi của các giải pháp.

Đầu tiên, cần tăng cường hỗ trợ về hạ tầng, dịch vụ công cộng và tiếp cận các dịch vụ cơ bản như y tế, giáo dục. Việc phát triển hạ tầng bền vững và nâng cao chất lượng dịch vụ công cộng không chỉ góp phần cải thiện điều kiện sống mà còn giúp tăng cường khả năng chống chịu với các tác động của biến đổi khí hậu và dịch bệnh.

Thứ hai, cần chú trọng vào việc nâng cao năng lực và trình độ của người dân DTTS thông qua giáo dục và đào tạo. Cung cấp các khóa đào tạo về kỹ năng nghề nghiệp, kiến thức pháp luật và kỹ năng ứng phó với các tình huống khẩn cấp sẽ giúp người dân có thể tự vệ và phát triển kinh tế bền vững.

Thứ ba, việc tăng cường an ninh và trật tự tại các khu vực DTTS cũng cần được ưu tiên. Sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng trong việc phòng chống tội phạm, giải quyết vấn đề di cư tự do và hỗ trợ nạn nhân của buôn bán người là rất quan trọng.

Cuối cùng, bất kỳ giải pháp nào cũng phải được thực hiện một cách bền vững và có sự tham gia của cộng đồng. Các chương trình phát triển cần dựa trên nhu cầu thực tế và sự đồng thuận của người dân địa phương. Chỉ khi có sự tham gia và hỗ trợ của toàn xã hội, mới có thể xây dựng một tương lai ổn định, an toàn và phát triển bền vững cho các vùng DTTS.

越南财经网 cung cấp nhiều thông tin hữu ích về kinh tế và xã hội Việt Nam, bao gồm cả các vấn đề liên quan đến phát triển bền vững ở các vùng DTTS.

]]>